VỀ NHỮNG TÁC PHẨM "NHÌN LẠI QUÁ KHỨ"

Đọc THUYỀN của NGUYỄN ĐỨC TÙNG.

Có lẽ đã có nhiều bài viết rất hay về cuốn sách này qua hai cuộc giới thiệu sách và gặp gỡ tác giả ở HN và Huế, nói khá đầy đủ về nội dung, bút pháp, tâm thức, cảm xúc... của người viết và nhiều người đọc. Tôi là một người đọc bình thường, và là người trong một gia đình cũng có những người ruột thịt đã vượt biển vào khoảng thời gian được kể lại trong THUYỀN.

Tôi đọc THUYỀN trong một buổi chiều Sài Gòn mưa tầm tã, cảm giác bị lạc trong màn mưa dày đặc tối trời có lẽ góp phần làm cho tôi đồng cảm sâu sắc hơn về nỗi bất an và tai họa của những người trên THUYỀN qua từng trang sách của Nguyễn Đức Tùng.
Khép lại trang cuối, tôi bỗng nhớ tới một từ tôi học được từ những ngư dân đảo Lý Sơn. Cứ sau mỗi chuyến đi biển gặp bão tố hay tai họa, trở về bờ một thời gian sau họ vẫn còn một cảm giác, gọi là SAY BỜ.

Có lẽ THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng chính là cảm giác Say Bờ... Đến bờ, ở trên bờ đã rất lâu, nhưng những gì chứng kiến, trải qua trên biển vẫn còn đó, không dữ dội hoảng loạn nhưng vẫn đầy ám ảnh và đau đớn...


Phim THE READER (ĐỘC GIẢ - 2008) 

Tôi xem lại phim Độc giả (The reader) giữa những ngày tình hình Israel và Iran đang ác liệt.Điều làm tôi nhớ để xem lại phim này (dù xem đã lâu) chính là đoạn cuối. Luật sư Michael đến Boston tìm gặp một nạn nhân của trại tập trung, nơi mà Hanna từng làm cai ngục ở đó. Khi ấy nạn nhân ấy là một cô bé bị bắt cùng cả gia đình. Tại phiên tòa xử Hanna, Michael đã gặp hai mẹ con nạn nhân với tư cách là nhân chứng. Và bây giờ khi Hanna đã chết, anh tìm đến người phụ nữ này để thực hiện “di chúc” của Hanna.

Machael đưa cho cô ấy chiếc hộp trà bằng sắt trong đó có tiền mà Hanna muốn gửi lại cho cô gái với lời nhắn “tùy ý sử dụng”. Người phụ nữ nói, đại ý:
- Tôi chẳng thể làm gì với số tiền này. Nếu tôi đưa cho một tổ chức nào đó liên quan đến cuộc diệt chủng Do Thái, tôi thấy như mình đang xá tội. Tôi không muốn và không đủ tư cách làm vậy.
Michael trả lời: Tôi đang nghĩ đến một tổ chức thúc đẩy xóa mù chữ chẳng hạn?
- Tốt lắm. Người phụ nữ trả lời
Michael như trút được gánh nặng, anh hỏi: cô có biết một tổ chức Do thái nào không?
- Lĩnh vực nào cũng có tổ chức Do Thái. Nhưng mù chữ cũng là vấn đề lớn của người Do Thái. Sao anh không tự tìm và gửi tiền cho họ?
Người phụ nữ giữ lại chiếc hộp trà bằng thiếc... nó gợi cho cô nhớ lại chiếc hộp đựng kỷ vật mà hồi nhỏ cô mang vào trại tập trung, nhưng đã bị lấy mất vì có những dòng chữ Do thái trên đó.
Chỉ một đoạn ngắn thôi mà để lại quá nhiều suy nghĩ và liên tưởng.
Trải qua những tội ác trong chiến tranh (và cả tội ác thời hậu chiến), sự trừng phạt, trả thù không bao giờ mang lại cho nạn nhân (của cả hai thời kỳ) sự quên lãng. Vì vậy tha thứ hay khoan dung đều hề không dễ dàng. Muốn hay không muốn tha thứ chỉ là chuyện cá nhân, nhưng quan trọng hơn là có thẩm quyền để làm điều đó hay không? Thẩm quyền ấy, thường là của cả một cộng đồng từng là nạn nhân, từng phải chịu đựng bất công, tội ác! Thẩm quyến của cộng đồng sẽ quyết định hành xử tha thứ hay không. Nhưng cộng đồng lại là tập hợp của nhiều cá nhân. Ý chí của cá nhân có thể tác động đến ý chí cộng đồng hay không?
Như trong THE RAEDER, cả hai bên đều chân thành, tôn trọng sự thật lịch sử và “cảm xúc lịch sử” của nhau. Vì vậy đã bắt đầu “đến gần nhau hơn” từ một điểm chung: nhìn nhận và góp phần giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay. Chưa thể tha thứ cho quá khứ nhưng có thể cùng thay đổi hiện tại và tương lai! Cũng là cách tự hòa giải với ký ức đau buồn của chính mình!
Tôi xem khá nhiều phim nước ngoài có chủ đề chiến tranh và hòa giải, và những phim ấy đều mang thông điệp nhân văn: con đường hòa giải với ký ức có quá nhiều cái hố của thù hận, chia cắt. Muốn thay đổi cần bắt đầu từ một hòn đá có khi chỉ đủ chèn vào một hố nhỏ trên đường, giúp cho một người đi đường không vấp té... Và cứ thể, mỗi người với từng viên đá nhỏ có thể giúp con đường bằng phẳng hơn, chứ không dùng để đào thêm những hố sâu và gây thêm thương tích cho chính mình, cho người khác... Cần lắm, sự kiên nhẫn và lòng khoan dung.

20.6.25
#vaiphimvuaxem [lâu qúa mới viết lại mục này]
Tìm mãi mới có 1 tấm hình của đoạn phim trên 🙂



TRÔI ĐI NHỮNG BỒNG BỀNH của hoạ sĩ Vũ Hoàng Tuấn

 Mình rất thích tranh của Vũ Hoàng Tuấn, có lẽ vì mình "cảm" cái chất dân gian hóm hỉnh, hay chất sang cả mà sâu lắng "kiểu Phái" trong nét vẽ hiện đại của anh.

Xem tranh của anh dù một mình hay giữa đông người, cũng nhận ra sự bồi hồi không thể chia sẻ cùng ai, dường như đang trở về một giấc mơ hoang nào đấy...
Từ lâu rồi, hai chị em chỉ biết nhau qua FB. Cho đến một bữa Tuấn mang đến tận nhà tặng mình 1 bức tranh mà mình rất thích. Lúc đó mới gặp nhau lần đâu... Có lẽ cũng chỉ mới gặp 2, 3 lần gì đó thôi, Tuấn nhỉ 🙂
Nhưng mà bọn cùng cầm tinh con Cún thì nhận ra nhau nhanh lắm 😃
Chúc mừng Vũ Hoàng Tuấn nhé, chúc mừng cả gia đình nhỏ ấm áp của Tuấn nữa 🙂
Vài bức tranh trong triển lãm của anh, hình từ Mai Art Space

Đọc thêm bài trên báo Tuổi trẻ về tác giả và triển lãm này













DẤU ẤN VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Ở NAM BỘ - VIỆT NAM

  (trích tham luận tại HTKH 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Đông Sơn, 1924 - 2024)

Thời đại kim khí Việt Nam có ba trung tâm văn hóa phát triển rực rỡ: Đông Sơn ở miền Bắc, Sa Huỳnh ở miền Trung và Đồng Nai ở miền Nam. Mỗi trung tâm có truyền thống và bản sắc riêng, thông qua giao lưu văn hóa – kỹ thuật mỗi nền văn hóa đã lưu lại dấu ấn đặc biệt của các nền văn hóa khác.

Vùng đất Nam bộ đã phát hiện một số di vật thể hiện dấu ấn của văn hóa Đông Sơn, tuy ít ỏi nhưng là hiện vật đặc trưng của nền văn hóa này. Tìm hiểu về giao lưu văn hóa có thể nhận thấy ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn đến những vùng xung quanh tùy thuộc vào mức độ tương đồng và khác biệt với những nền văn hóa ở đó. Những dấu ấn của văn hóa Đông Sơn ở Nam bộ phản ánh mức độ và cách thức văn hóa Đồng Nai tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn.

....

Cơ sở của sự giao lưu văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai

Đây là hai nền văn hóa hình thành và phát triển chủ yếu ở lưu vực hai con sông lớn: sông Hồng và sông Đồng Nai, là tiền đề của hai nền văn minh. Do đó chúng đều có ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa quan trọng như nhau. Từ những yếu tố cơ bản của một nền văn hóa khảo cổ, có thể nhìn nhận một số tương đồng và khác biệt của hai nền văn hóa này[1].

Địa hình cư trú của dân cư văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đồng Nai.

Xuất phát của hai nền văn hóa này đều từ vùng trung du – đồi phù sa cổ của sông Hồng/sông Đồng Nai. Giai đoạn phát triển cuối – sơ kỳ sắt – thì hệ thống di tích đã lan rộng đến tận ven biển. Nếu văn hóa Đông Sơn lấy sông Hồng làm tuyến phát triển chính, bên cạnh đó còn có lưu vực sông Mã, sông Cả thì văn hóa Đồng Nai cũng lấy lưu vực sông Đồng Nai làm tuyến chính, cùng với đó là lưu vực sông Bé và sông Vàm Cỏ.

Văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều có thể phân chia thành những “loại hình” theo địa lý: Đông Sơn núi/đồng bằng/ven biển; Đồng Nai đồi bazan/phù sa cổ/ngập mặn. Trong đó, dân cư văn hóa Đông Sơn phát triển đời sống phong phú nhất ở đồng bằng sông Hồng còn dân cư văn hóa Đồng Nai có đời sống phong phú nhất là vùng ven biển, vì sông Đồng Nai chưa kịp tạo lập được một vùng đồng bằng như sông Hồng. Đồng thời, vùng cửa sông Đồng Nai nằm trên tuyến đường biển vùng ĐNA có mối quan hệ giao lưu sôi động trong thời hậu kỳ kim khí.

Về quan hệ giao lưu và lan tỏa của hai nền văn hóa Đông Sơn, Đồng Nai

Văn hóa Đông Sơn có xu hướng giao lưu theo dòng chảy của sông Hồng từ phía bắc xuống; trong khi đó ảnh hưởng và giao lưu ở văn hóa Đồng Nai nổi rõ yếu tố từ biển Đông vào. Đến giai đoạn sơ kỳ sắt yếu tố văn hóa lục địa khá nổi trội trong văn hóa Đông Sơn (thể hiện qua những bộ sưu tập công cụ – vũ khí đồng/sắt) còn trong văn hóa Đồng Nai yếu tố văn hóa biển càng rõ ràng (nhất là qua đồ trang sức và đồ gốm của nhóm di tích Giồng Cá Vồ/ Giồng Phệt/ Giồng Lớn/ Gò Ô Chùa).

Trong mối quan hệ với với văn hóa Sa Huỳnh – trung tâm kim khí ven biển miền Trung và là “vùng đệm” thì mối liên hệ Đông Sơn – Sa Huỳnh không nhiều: vài ngôi mộ vò trẻ em, một vài trang sức thủy tinh, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, tìm thấy chủ yếu ở khu vực giáp ranh (Bắc Trung bộ). Có lẽ đây là sản phẩm của giao lưu trao đổi. Còn văn hóa Đồng Nai lại có quan hệ chặt chẽ và nhiều chiều với văn hóa Sa Huỳnh: thể hiện trên đồ gốm, trang sức, táng thức mộ chum; khu vực giáp ranh Nam Trung bộ (Hòa Diêm – Khánh Hòa) càng đậm nét. Tuy nhiên, cần nhìn nhận mối quan hệ này biểu hiện sự “đồng quy văn hóa” của các nền văn hóa Biển, thể hiện qua hệ thống các di tích ven biển và hải đảo Đông Nam Á mà W. Solheim đã chỉ ra trong truyền thống gốm Sa Huỳnh – Kalanay.

          Táng thức mộ chum/vò (Sa Huỳnh và Đồng Nai) hay táng thức mộ thuyền (Đông Sơn) tuy khác nhau về hình thức nhưng cùng phản ánh một tín ngưỡng về cái chết. Trong các mộ chum ở Cần Giờ có chôn theo “cà ràng” – loại bếp gốm độc đáo dùng trên ghe, thuyền; nắp đậy mộ vò ở hang Manungui đảo Palanwan ở Philippines có núm cầm hình thuyền với 2 người đang chèo, hay mộ quan tài hình thuyền trong văn hóa Đông Sơn… đều thể hiện ý nghĩa: quan tài hình thuyền hay mộ chum/vò đều tượng trưng cho “phương tiện” chuyên chở linh hồn qua thế giới bên kia. Trong ý nghĩa này văn hóa Đông Sơn và Cần Giờ – Đồng Nai gần nhau hơn vì cùng tục chôn nguyên thi thể.

Kỹ thuật luyện kim: Di tích văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều không tìm thấy nhiều công cụ, vũ khí bằng sắt, khác với văn hóa Sa Huỳnh đồ sắt khá phổ biến, hầu hết là đồ tùy táng tìm thấy trong mộ chum. Tuy nhiên văn hóa Đông Sơn và Đồng Nai có kỹ thuật đúc đồng phát triển đến đỉnh cao: nhiều di tích là công xưởng, phổ biến khuôn đúc hai mang, khuôn đúc liên hoàn… Trong các loại vũ khí thì cả Đông Sơn và Đồng Nai đều có “qua đồng” – một loại hiện vật được coi là có nguồn gốc từ phía văn hóa Hán. Một hiện vật nguồn gốc văn hóa Hán có mặt trong cả ba nền văn hóa là gương đồng.

Đặc biệt trống đồng “kiểu” Đông Sơn trong văn hóa Đồng Nai có trường hợp sử dụng rất đặc biệt:  Trống đồng được sử dụng làm nắp đậy chum trong táng thức “mộ chum gỗ” ở Phú Chánh (Bình Dương) là sự kết hợp hai yếu tố đặc trưng của hai văn hóa. Ngoài ra trong những chum gỗ còn tìm thấy bộ “công cụ dệt gỗ” 23 hiện vật gồm trục dệt, dao dệt, lược chải sợi và các thanh có nấc. Đây là những kết cấu của loại khung dệt mà hiện nay một số dân tộc ít người ở Tây Nguyên và Đông Nam Á vẫn còn sử dụng[2], cả ở ĐNA hải đảo[3].

Về truyền thống văn hóa tạo dựng nhà nước sơ khai thời đại kim khí: Nền văn minh sông Hồng phát triển trên cơ sở kỹ thuật luyện kim trình độ cao và nông nghiệp lúa nước, được định danh là “văn minh lúa nước” và trở thành truyền thống “bốn ngàn năm”. Văn hóa Đông Sơn trở thành cốt lõi của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc và được “tái hiện” trong văn minh Đại Việt sau một ngàn năm “Bắc thuộc”.

          Văn minh sông Đồng Nai phát triển trên cơ sở kinh tế nông nghiệp nương rẫy và giao lưu “kinh tế biển”; sau này vương quốc Phù Nam phát triển trên nền tảng nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long sự thịnh đạt của cảng thị Óc Eo - Nền Chùa. Văn hóa Đồng Nai với những di tích “Tiền Óc Eo” là nguồn gốc bản địa của văn hóa Óc Eo thời Vương quốc Phù Nam.  Khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, “truyền thống” Óc Eo còn kéo dài thêm nhiều thế kỷ, không thể không có vai trò cội rễ của văn hóa Đồng Nai.

Yếu tố “biển” trong văn hóa Đồng Nai phổ biến trong hệ thống các di tích thời sơ kỳ sắt ven biển Đông nam bộ và tái hiện mạnh mẽ trong văn hóa Óc Eo. Trong văn hóa Đông Sơn yếu tố bin không phải là chủ đạo tuy có loại hình Đông Sơn ven biển, nhưng “nguồn gốc biển” lại hiện diện trong truyền thuyết khởi nguồn Âu Cơ và Lạc Long Quân.

Như vậy, từ sự tiếp cận môi trường sinh thái và đặt trong bối cảnh văn hóa rộng hơn, những tương đồng và khác biệt của văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đã chứng minh cho sự đa dạng của đời sống và văn hóa các nhóm dân cư thời tiền sử trên đất nước ta. Sự tương đồng hay khác biệt đều xuất phát từ “thế ứng xử” với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội – trong đó có những mối quan hệ giao lưu nhiều chiều của chủ nhân hai nền văn hóa này. Những tương đồng là điều kiện cần có để thực hiện quá trình giao lưu văn hóa, để có thể tiếp nhận những gì phù hợp và tiến bộ, thúc đẩy sự phát triển nội tại và toàn khu vực. Những khác biệt là điều kiện cần đủ để có các cách thức khác nhau trong chọn lọc, thay đổi những gì tiếp nhận từ một nền văn hóa khác, từ đó tạo ra yếu tố mới mang đặc điểm riêng, độc đáo. Duy trì và phát triển sự khác biệt độc đáo góp phần cho sự đa dạng của toàn khu vực ĐNA. Cả văn hóa Đông Sơn và văn hóa Đồng Nai đều có những đóng góp quan trọng như vậy.


[1] Nguyễn Thị Hậu, 2014, Văn hóa Đồng Nai và văn hóa Đông Sơn – Những tương đồng và khác biệt. HTKH kỷ niệm 90 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn. Bảo tàng lịch sử quốc gia. Hà Nội

[2] Hồ sơ Bảo vật quốc gia Bộ dụng cụ dệt gỗ Phú Chánh – Bình Dương. Cục Di sản văn hóa.

[3] Kết quả khảo sát của tác giả và đồng nghiệp tại Hoa Liên, Đài Loan, tháng 3.2024. Hoa Liên là nơi có một số cộng đồng dân cư bản địa, họ vẫn bảo tồn những nghề truyền thống như săn bắt, dệt vải... Công cụ dệt vải của họ khá giống những hiện vật tìm thấy trong mộ chum Phú Chánh ( Bình Dương). Hoa Liên cũng là nơi có những di tích chế tác đá ngọc, mà nhiều trang sức bằng đá ngọc trong văn hóa Đồng Nai có xuất xứ nguyên liệu từ đây.

TS. Nguyễn Thị Hậu






Yếu tố Biển – sự đồng quy văn hóa của giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ và Văn hóa Sa Huỳnh

 NGUYỄN THỊ HẬU

Trích bài đăng trong THÔNG BÁO BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA, 2019

...

Nhìn trên bản đồ Đông Nam Á, biển Đông có thể coi như một vùng “biển kín” bởi sự che chắn của lục địa châu Á và các quần đảo kéo dài từ Đài Loan qua Philippine đến Borneo. Trong biển Đông có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do đó vào thời tiền sử con đường giao thông để thực hiện giao lưu, thương mại được thực hiện ven biển theo các dòng hải lưu chịu ảnh hưởng của địa hình vùng biển và do chế độ gió mùa quyết định. Đông Nam Á còn được gọi là khu vực “Châu Á gió mùa” nên cư dân cổ đã tận dụng điều kiện này để di chuyển từ đảo, quần đảo vào đến liền và ngược lại.

Hiện tượng giống nhau giữa hang Tabon, Hòa Diêm và Giồng Cá Vồ/Giồng Phệt, phần nào cả Giồng Lớn, đặt trong không gian địa lý từ quần đảo Palawan vào vùng biển từ Khánh Hòa đến Cần Giờ sự “án ngữ” của quần đảo Trường Sa với hàng trăm đảo, bãi ngầm bãi cạn... “Nối” các di tích này với nhau theo “đường chim bay” tạo ra một tam giác có ba đỉnh là Tabon – Hòa Diêm – Giồng Cá Vồ /Giồng Phệt mà cạnh đáy của tam giác này rất hẹp. Các nhóm cư dân này khó có thể liên hệ với nhau theo đường thẳng vượt qua quần đảo Trường Sa nhiều bất trắc. Trong khi đó lại có những dấu hiệu cho biết về một con đường vòng theo ven biển phía Nam ĐNA từ quần đảo Philippines qua bán đảo Malaysia, khu vực Borneo và ngược lại, thể hiện bằng những di tích mộ chum đồng đại mang nhiều nét tương đồng ở Philippine, Indonesia, An Giang, Cần Giờ, Hòa Diêm...

....

Như vậy, mộ chum/vò hiện diện khá rõ ràng ở phía Nam ĐNA, con đường di cư/di chuyển ven biển giữa những địa bàn này là “tác nhân” quan trọng của hiện tượng này. Sự giao thoa văn hóa giữa các nhóm cư dân cùng thời, cùng trình độ phát triển, cư trú trên địa  bàn kề cận nhau là hiện tượng mang tính quy luật. Sự giống nhau về táng thức và táng tục hay là thực chất mối quan hệ của các di tích Hòa Diêm, Cần Giờ và các di tích Tabon, Kalanay ngoài quần đảo Philippine cần được nhìn nhận vượt ra ngoài phạm vi hạn hẹp của từng nền văn hóa khảo cổ, nó cần được xem xét trong một không gian biển – ven biển – hải đảo rộng lớn và không chia cắt, vì  đó là không gian sinh tồn chung của các nhóm cư dân Đông Nam Á thời nguyên thủy.

3. Văn hóa Sa Huỳnh và “văn hóa Cần Giờ” nói riêng và giai đoạn “tiền Óc Eo” nói chung đều mang nhiều yếu tố thể hiện mối liên hệ mật thiết với khu vực đảo, quần đảo Đông Nam Á và xa hơn. Đó là những dữ liệu quan trọng để tìm hiểu về nguồn gốc chủ nhân và mối quan hệ của các nền văn hóa trong bối cảnh rộng lớn của Đông Nam Á chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi địa lý “lãnh thổ Việt Nam” ngày nay. Biển Đông từ thời xa xưa cho đến nay luôn có một vị trí quan trọng trong sự phát triển của khu vực, là con đường mang đến những yếu tố “ngoại sinh” thúc đẩy các nhóm cư dân sơ kỳ đồ sắt phát triển sang một thời kỳ mới, như là từ văn hóa Sa Hùynh phát triển đến văn hóa Champa và nhà nước Lâm Ấp – Champa ở miền Trung, từ văn hóa Đồng Nai, cụ thể là từ giai đoạn “tiền Óc Eo” đến văn hóa Óc Eo ở Nam bộ và nhà nước Phù Nam.

Mỗi văn hóa khảo cổ cần được đặt trong dòng chảy của một bối cảnh và truyền thống văn hóa rộng hơn để có thể nhận biết “chuỗi tiến hoá liên tục những nguồn lực nội sinh. Song... không xem thường những nguồn lực ngoại sinh đến qua biển. Cái lý luận cổ điển “nội sinh quyết định ngoại sinh phù trợ” đã được làm mềm dẻo đi ở cảng Cần Giờ và các cảng thị miền Trung với dải văn hóa Nam đảo và luồng buôn bán quốc tế ven bờ biển Đông” (Trần Quốc Vượng, 1998).

Đấy chính là nội hàm của mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh với các văn hóa cùng thời, trong đó có văn hóa Đồng Nai mà đại diện là các di tích thuộc giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ.





T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i

  Bùi Chát T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i Câu hỏi “Bùi Chát đa...