T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i

 Bùi Chát

T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i
Câu hỏi “Bùi Chát đang đi đâu và hội họa của anh thực sự muốn nói gì?” – như được đặt ra trong bài viết của Tobi Trần – là một câu hỏi sai ngay từ nền tảng. Nó xuất phát từ một hệ hình phê bình cũ kỹ, nơi nghệ thuật bị ép buộc phải vận hành như một hệ diễn ngôn tuyến tính: có mục đích, có lộ trình, có thông điệp.
Tôi xin khẳng định dứt khoát: Tôi không “đi đâu cả”. Và hội họa của tôi không “muốn nói gì” cả. Bởi vì chính ý tưởng về việc nghệ thuật “phải nói gì đó” đã là một áp lực sai lầm, một thứ hình phạt mang tính thể chế, đã quá lâu được sử dụng như công cụ định giá nghệ thuật.
H ộ i h ọ a k h ô n g p h ả i l à d i ễ n n g ô n
Hội họa – đối với tôi – không phải là phương tiện truyền đạt ý tưởng, càng không phải là kênh phát ngôn thứ hai như cách Tobi Trần gán ghép. Tôi không dùng tranh để gửi gắm nội dung, cũng không coi tác phẩm là lời giải cho một câu hỏi xã hội, thẩm mỹ, hay triết học.
Hội họa tình huống – như tôi đang thực hành – không vận hành trên cơ sở ý tưởng tiền lập, mà khởi sinh từ những tình huống trực tiếp của hành vi vẽ: một cú lia cọ sai, một mảng màu tràn mép, một khoảnh khắc mất kiểm soát. Cái gọi là “nội dung” nếu có, chỉ là thứ phát sinh sau hành động, không hề được hoạch định từ trước. Do đó, việc tìm kiếm trong tác phẩm của tôi một thông điệp có cấu trúc hay một kết luận khái niệm là hoàn toàn vô nghĩa.
T ô i k h ô n g d i c h u y ể n – t ô i đ ố i d i ệ n
Tobi Trần muốn tôi “đi đâu đó” như thể nghệ sĩ cần một lộ trình phát triển. Nhưng nghệ thuật không phải là hành trình địa lý hay tiến trình tăng trưởng. Tôi không đi đâu cả – vì tôi đang ở đây. Tôi đối diện với bề mặt vẽ, với khoảnh khắc không thể lặp lại, với tình huống hội họa chưa từng biết trước.
Sự “đang trôi” mà Tobi mô tả – nếu có – không phải là dấu hiệu của lạc hướng, mà là một chủ đích phản-thể chế: từ chối khung đích, từ chối hệ tư tưởng tuyến tính, và từ chối cả những loại “chiến lược nghệ thuật” được định nghĩa từ bên ngoài hành vi sáng tạo.
S ự t h i ế u v ắ n g t r u n g t â m l à m ộ t l ự a c h ọ n m ỹ h ọ c
Bài viết của Tobi chê tranh tôi “không có trung tâm”, “không dẫn dắt trí tuệ”, “không có kết cấu ý niệm”. Điều anh cho là thiếu vắng ấy – thực chất – là kết quả của một lựa chọn mỹ học có ý thức: tôi chủ động gỡ bỏ trung tâm, trì hoãn ý nghĩa, đẩy người xem vào tình huống bất định thị giác.
Tôi không yêu cầu người xem “hiểu”. Tôi muốn họ ở lại, ngập ngừng, nghi hoặc. Hội họa tình huống không yêu cầu sự “thấu triệt”, mà chấp nhận sự mơ hồ như một điều kiện cần thiết cho cảm thụ. Tác phẩm không còn là lời tuyên bố, mà là sự cố thị giác, một cú lệch trong chuỗi tri nhận thông thường.
T r i ể n l ã m k h ô n g p h ả i l à c ô n g b ố t h à n h t ự u, m à l à p h ư ơ n g t h ứ c t ồ n t ạ i
Việc tôi làm triển lãm liên tục không phải là để “che lấp khoảng trống tư duy” như Tobi suy đoán, mà là để duy trì trạng thái hoạt động. Mỗi triển lãm là một lần làm hiện diện tình huống hội họa, là một thử nghiệm sống trước công chúng, không nhắm đến sự hoàn tất mà hướng tới sự tiếp tục.
Tôi không xem triển lãm là nơi trưng bày sản phẩm cuối cùng. Nó là nơi tình huống gặp tình huống: tình huống sáng tác – tình huống nhìn – tình huống phản ứng. Chính trong cái va đập không thể tiên lượng đó, nghệ thuật – nếu còn – sẽ xảy ra.
T ô i c h ủ ý l à m n h i ễ u q u a n h ệ g i ữ a h ì n h v à n g h ĩ a
Việc đặt tên tranh bằng bốc thăm thơ, chơi chữ, hoặc những cú lệch ngữ nghĩa không nhằm đánh lạc hướng mà nhằm phá vỡ thói quen đọc tranh bằng tiêu đề. Tôi muốn tạo ra một khoảng cách giữa hình và từ, giữa cái thấy và cái gọi tên – để người xem không thể dựa vào ngôn ngữ như cái nạng để hiểu hình ảnh.
Trong thơ, tôi làm điều đó bằng cấu trúc rối. Trong tranh, tôi làm điều đó bằng việc thả ngôn ngữ vào chỗ không ai yêu cầu, để nó không dẫn dắt mà chỉ làm tăng thêm sự bất ổn.
K h ô n g a i b ị t h i ế u t ư d u y – c h ỉ c ó c á c h đ ọ c c ủ a T o b i T r ầ n l à b ị đ ó n g k h u n g
Tobi Trần cho rằng tranh tôi “thiếu kết cấu tư duy”. Nhưng vấn đề không nằm ở tác phẩm, mà nằm ở cách đọc đã bị định hình bởi mô hình lý tính cũ kỹ. Phê bình kiểu đó đòi hỏi nghệ sĩ phải xây dựng hệ thống, phải nói rõ điều mình nghĩ, phải tạo ra hành trình. Nhưng tôi – như đã nói – từ chối tất cả các yêu cầu đó.
Tôi không trình bày tư duy kiểu Tobi nghĩ. Tôi hành động trong một tình huống cụ thể, nơi tư duy – nếu có – không phải là hệ thống luận lý, mà là một chuyển động lộn xộn nhưng có thực.
T ô i k h ô n g “trôi” – t ô i đ a n g l à m n h i ễ u h ệ t h ố n g t r i n h ậ n
Tôi không “đang trôi” theo nghĩa buông thả. Trái lại, tôi chủ ý làm nhiễu hệ thống. Tôi không “neo vào bờ nhận thức”, vì chính cái “bờ” đó cần được tháo dỡ. Tranh tôi không dẫn đi đâu cả, vì nó không phải là bản đồ, mà là sự cố.
Nếu nghệ thuật còn ý nghĩa, thì ý nghĩa ấy nằm trong khả năng gây rối loạn tạm thời hệ thống nhìn của người xem – chứ không phải trong việc củng cố những lối cảm thụ an toàn. Tôi không vẽ để ai đó đồng thuận. Tôi vẽ để khiến hệ thống họ lệch khỏi quỹ đạo một chút. Chỉ cần vậy, là đủ.


Ghi chú của tui (Hậu khảo cổ): tâm thức "giải trung tâm" (giải thiêng nghệ thuật kiểu hàn lâm) thực sự thúc đẩy sự phát triển trong thời đại mới. Người còn tư duy "duy tâm" thì khó hiểu và khó chấp nhận những hoạt động thực hành nghệ thuật kiểu của Bùi Chát hiện nay hay của Nhóm Mở Miệng, Khoan Cắt Bê Tông khi trước.

ĐỌC VÀ NGHE NÓI

 

Khoảng mươi năm gần đây văn hóa đọc trở lại như một phong trào xã hội, một sự “cân bằng” lại với xu hướng nghe nhìn đang thắng thế mạnh mẽ nhờ các phương tiện internet. Phong trào đó phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Tuần qua, khi một người có tầm ảnh hưởng vừa ra đi, trong những lời thương tiếc, rất nhiều người nhớ đến anh như một người truyền cảm hứng về văn hóa đọc cho lớp trẻ.

Vì sao hiện nay văn hóa đọc lại quan trọng với xã hội và cần thiết cho mọi người như vậy?

Văn hóa đọc không chỉ là hành vi đọc mà còn bao gồm thói quen, môi trường, thái độ, động cơ và giá trị xã hội của việc đọc. Đọc ở đây là đọc chậm hơn, dài hơn và có chiều sâu hơn từ những sản phẩm in, từ internet. Giá trị của văn hóa đọc, với tôi, không chỉ là biết mà là để hiểu.

Thời nhỏ, tôi tiếp nhận thông tin theo những cách rất truyền thống. Từ những bài ca dao, câu thành ngữ tục ngữ, những kinh nghiệm và tri thức dân gian về thời tiết, về kỹ thuật lao động sản xuất, về ứng xử cộng đồng… đã được “chuyển giao” trực tiếp qua những lần trò chuyện, giảng giải từ thế hệ ông bà, cha mẹ. Những thông tin từ chính quyền về quản lý xã hội cũng được phổ biến từ hệ thống truyền tin như loa phường, hoặc qua các cuộc họp ở xã để “phổ biến thông tin”. Một người “truyền đạt” và tiếp nhận kiểu tập thể. Không phải mọi người đều hiểu thông tin như nhau, nhưng không ai có cơ hội phản hồi.

Cách thông tin “truyền miệng” lâu đời tạo nên thói quen chỉ nghe ở người tiếp nhận, từ thời phong kiến khi xã hội phần lớn là người mù chữ đến thời bao cấp phương tiện truyền thông ít ỏi và lạc hậu. Thời đó sách in không nhiều, người thích đọc luôn “đói sách”, nhưng nhờ vậy mỗi cuốn sách mới là một sự kiện và luôn có những bạn đọc tâm giao.

Cách tiếp nhận thông tin từ chữ viết, tức là cách đọc, biến đổi theo thời gian: Từ loại sách vỡ lòng “Tam tự kinh” đến “bình dân học vụ”, từ “độc quyền”sách in báo giấy đến sự đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của thông tin. Hiện nay phổ biến rất nhiều loại sách in, ebook, báo chí, truyền thông trực tuyến, mạng xã hội... Nếu sách in mang lại cảm xúc và lưu giữ ký ức trong nhiều thế hệ người đọc thì các loại sách hiện diện trên internet mang đến thông tin nhanh, nhiều, mới lạ. Tuy nhiên khi đọc cần có kỹ năng và kiến thức nhất định, có “bản lĩnh” thì thông tin tiếp nhận mới thật sự hữu ích.

Lợi ích và giá trị của sách dù ở hình thức nào cũng chỉ có được khi biết đọc đúng. Bởi vì cách đọc trong quá khứ là “đọc theo, hiểu theo, làm theo” những gì được viết và sự diễn giải chủ quan của một vài người. Còn cách đọc của thời hiện đại là cá nhân hóa quá trình tiếp nhận thông tin đọc – nghĩ – hiểu – hành. Hành là thực hiện những gì được người đọc cho là đúng từ quá trình nghĩ và hiểu của chính mình, không chỉ là làm theo.

Hiện nay sự thay đổi cách thức và mức độ đọc sách đi cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Các loại trí tuệ nhân tạo đã được ứng dụng để “đọc thay” con người, từ một văn bản vài chục trang đến kho dữ liệu đồ sộ trên internet. Điều này giúp con người rút ngắn thời gian tìm kiếm, tránh sự “phát hiện lại châu Mỹ”. Tuy nhiên sử dụng internet không đúng sẽ làm tăng nhanh xu hướng tiếp nhận thông tin kiểu “nghe nói” từ các AI.

Có thể nói hiện nay cách đọc chính là cách ứng xử với thông tin. Ứng xử thế nào xã hội sẽ phát triển như vậy. Tôi, thuộc thế hệ cũ, vẫn thích đọc những tác phẩm của các tác giả yêu thích, về các chủ đề mình quan tâm. Tất nhiên sách in bao giờ cũng là ưu tiên hàng đầu, bởi đó là thói quen, hơn nữa, là ký ức. Song tôi cũng không từ chối những cách đọc khác, nhất là đọc từ Internet. Nhưng đọc kiểu gì tôi cũng luôn tự nhắc: Đọc bằng mắt và bằng đầu của mình, chứ đừng đọc bằng tai kiểu “nghe nói” của thời xưa cũ hay của thời lên mạng hiện nay.

Báo Tuổi trẻ ngày 4.8.2025

 



 

VĂN HOÁ THỊ DÂN Ở THÀNH PHỐ MỚI

 Nguyễn Thị Hậu

Thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm TP. Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, tuy cùng trong vùng văn hoá “Xứ Quảng” lâu đời nhưng là hai địa phương có bản sắc riêng. Việc sáp nhập đơn vị hành chính thống nhất mang lại một thành phố ĐÀ NẴNG MỚI sẽ có tác động sâu sắc đến cấu trúc kinh tế – xã hội – văn hóa của cả “xứ Quảng”, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều thách thức, đặc biệt là văn hoá thị dân sẽ có những chuyển biến lớn. Có thể nhận diện một số đặc trưng cơ bản của Đà Nẵng và Quảng Nam, từ đó tìm kiếm những phương thức phù hợp để xây dựng và phát triển “văn hoá thị dân” cho một thành phố trung tâm của khu vực miền Trung.

Đà Nẵng là thành phố trực thuộc trung ương, phát triển hiện đại, định hướng quốc tế hóa. Tính chất đô thị ngày càng được khẳng định: từ đầu những năm 2000 đến nay Đà Nẵng là một trung tâm lớn về văn hoá và dịch vụ. Hạ tầng phát triển nhanh chóng, đồng bộ, nhiều không gian công cộng và sinh hoạt giao lưu văn hoá quốc tế. Dân cư tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, tính chất thị dân ngày càng rõ nét (ứng xử nơi công cộng, dịch vụ, kỷ cương…). Một “thành phố đáng sống” như mục tiêu được đặt ra và như đánh giá của nhiều người dân và du khách.

Quảng Nam là một tỉnh nông – ngư nghiệp, địa hình sinh thái đa dạng từ vùng núi, đồng bằng đến biển và đảo ven bờ. Hạ tầng phát triển chưa đồng bộ, thiết chế văn hoá nông thôn làng xã là chủ yếu. Dân cư chủ yếu sống ở nông thôn hoặc thị tứ nhỏ, văn hoá cộng đồng cao. Truyền thống văn hoá “xứ Quảng” mang tính đặc thù và bền vững. Nhiều di sản văn hoá độc đáo và nổi tiếng: Mỹ Sơn, Hội An, Cù lao Chàm, các làng nghề gốm, mộc, dệt lụa, vùng văn hoá lưu vực sông Thu Bồn…

Thành phố Đà Nẵng mới về cơ bản vẫn là không gian và con người “xứ Quảng”, chung một lịch sử hình thành và phát triển (dù đã có vài lần tách nhập), chung cá tính “người Quảng”, chung nhiều yếu tố văn hoá đặc trưng như ngôn ngữ, ẩm thực… Đó là “cơ sở khoa học” mang lại sự thuận lợi hơn nhiều địa phương khác trong quá trình sáp nhập. Với định hướng Đà Nẵng sẽ là một trung tâm kinh tế lớn, trung tâm dịch vụ và du lịch… thành phố sẽ phát triển nhanh hơn tính chất văn hoá đô thị về cả “vật thể và phi vật thể”: có điều kiện vật chất xây dựng hạ tầng đường xá với vỉa hè, cây xanh, phương tiện giao thông công cộng, các khu đô thị mới hoặc chỉnh trang khu cư trú cũ theo hướng tiện nghi, vệ sinh hơn… Xây dựng các thiết chế văn hoá đô thị (như các cụm công trình rạp phim, nhà hát, thư viện, nhà văn hoá…) ở những vùng nông thôn hiện nay. Cơ sở vật chất là tiền đề cho việc xây dựng ý thức “văn minh đô thị” ở người dân. Đô thị hoá – hiện đại hoá cũng là xu hướng phát triển hiện nay, nhưng nếu được định hướng và lấy một đô thị có “thương hiệu” như Đà Nẵng làm hạt nhân lan toả các yếu tố văn hoá đô thị, thì quá trình này sẽ thuận lợi và phát triển đúng hướng.

***

Tuy nhiên, bất cứ quá trình đô thị hoá nào cũng có hiện tượng “xung đột văn hoá”, thể hiện rõ nhất là văn hoá thị dân. Văn hoá đô thị hướng đến xây dựng phát triển tính chất công dân hiện đại với nền hành chính chuyên nghiệp, “chính quyền và công dân số”. Do đó những khu vực nông thôn bảo lưu văn hoá làng xã, họ tộc, tín ngưỡng dân gian… cần có sự chuyển đổi nhanh chóng để thích nghi với môi trường xã hội và không gian sống mới. Đó là lối sống mới trong môi trường đô thị đông đúc, đa dạng, sinh hoạt theo thời gian “hành chính, công nghiệp”, thích nghi với những thói quen ở đô thị như đúng giờ, không ồn ào, giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng tính cá nhân trong chung cư, khu đô thị mới… 

Người dân thành phố đã quen với nếp sống đô thị như xếp hàng, đúng giờ, không xả rác, sống trong chung cư thân thiện nhưng không tò mò chuyện riêng, giao tiếp hiện đại, đi lại bằng phương tiện công cộng, quen với hiện tượng nhập cư. Nhưng một số yếu tố văn hoá truyền thống có phần phai nhạt như thói quen tụ tập, mối quan hệ dòng họ, sinh hoạt gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất… Đó là những nét văn hoá được bảo tồn tốt hơn ở nông thôn, tạo thành sợi dây cố kết gia đình, dòng họ, tạo nên tính chất “đồng hương” bền chặt ở nơi xa quê.

Sinh hoạt văn hoá đô thị mang tính hướng ngoại, giao tiếp với cộng đồng đa dạng, văn hoá quốc tế hiện đại. Còn sinh hoạt văn hoá miền quê mang tính hướng nội, giao tiếp chủ yếu trong họ hàng, làng xã, tổ chức và duy trì văn hoá truyền thống bản địa… Vì vậy không chỉ vùng nông thôn mà cả ở đô thị đều cần có thêm nhận thức và hiểu biết, điều chỉnh và thay đổi để tăng cường sự thông cảm, hoà nhập thực sự. Từ đó mới có chuyển biến trong lối sống và những yếu tố văn hoá khác. Đồng thời, hai mô hình sinh hoạt văn hoá cần có những điều kiện vật chất và thiết chế khác nhau. Do đó, nếu không có chiến lược điều chỉnh, thích ứng từ cả hai phía một cách hài hoà, khách quan, dễ dẫn đến hiện tượng “đô thị đồng hoá nông thôn”, xoá bỏ những giá trị truyền thống độc đáo. Hoặc ngược lại, “nông thôn hoá đô thị”, trong không gian mang dáng vẻ đô thị nhưng sinh hoạt theo kiểu nông thôn, kiến trúc – quy hoạch lộn xộn, không rõ chức năng, bản sắc mờ nhạt, kỹ năng “sinh tồn” ở đô thị kém, con người thấy xa lạ không thuộc về đô thị mình đang sống…

***

Làm thế nào để tất cả người dân thành phố Đà Nẵng cảm thấy tự hào là công dân một thành phố hiện đại, không bị “gò bó” theo cách quản lý đô thị? Làm thế nào để văn hóa thị dân Đà Nẵng vừa tiên tiến vừa giữ được bản sắc Xứ Quảng? Đó là những câu hỏi mà chính quyền và người dân thành phồ cần có sự đồng tâm nhất trí để tìm ra câu trả lời.

Xu hướng phù hợp là xây dựng "văn hoá đô thị hoà hợp" vừa bảo đảm đô thị Đà Nẵng giữ vai trò trung tâm hiện đại; các đô thị cổ như Hội An, Tam Kỳ giữ vai trò kết nối với vùng đồng bằng và miền núi, nơi bảo tồn bản sắc truyền thống. Trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí văn hoá thị dân tôn trọng sự đa dạng văn hoá, không đồng nhất cưỡng chế.

Gìn giữ và tích hợp văn hóa bản địa vào vùng đô thị mới. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống theo hướng chuyển hóa, thích nghi với cuộc sống đô thị. Đồng thời xây dựng hạ tầng và không gian văn hóa công cộng, các thiết chế văn hoá đáp ứng nhu cầu cụ thể của cộng đồng dân cư từng khu vực. Đặc biệt coi trọng vai trò cộng đồng trong việc tham gia xây dựng, giáo dục, truyền thông và phổ biến văn hoá thị dân, bởi hơn ai hết, cộng đồng hiểu rõ việc tạo dựng văn hóa thị dân từ thực tiễn sinh động của chính mình.

Không thể phủ nhận vai trò của văn hoá thị dân trong phát triển đô thị, trong việc góp phần tạo dựng và gìn giữ bản sắc đô thị. Từ những định hướng hành vi và lối sống của cư dân sẽ tạo nền tảng xây dựng “thành phố văn minh”, “xã hội công dân”. Văn hoá đô thị với thị dân là chủ thể, là nguồn tài nguyên cho phát triển công nghiệp văn hoá – du lịch, nền kinh tế quan trọng của các thành phố nói riêng và của thế giới nói chung trong thế kỷ 21.














Đám giỗ Má

 Nhanh quá, mới đó mà Má xa tụi con 2 năm rồi...
Nay tụi con làm mâm cơm cúng Má, mời Ba và anh chị Hai về cùng Má. Cả nhà tụ tập đông đủ: con và chị, các cháu nội ngoại, các cháu cố, có cả các em con cậu Chín ở Cao Lãnh lên nữa. Mỗi người một tay nên mâm cúng đầy đủ, có cả những món Má thích. Bữa cơm ấm cúng.

Từ ngày Má mất sao con thấy con ngày càng giống Má :) cũng hay nhắc nhở con cháu cái này cái kia, để nghe tụi nó trả lời: mẹ giống ngoại quá rồi nha :) Ừ thì cũng đến lúc con sẽ như Má, chỉ mong sau này con được bình an tỉnh táo như những ngày cuối của Má.
Nhớ Má...









MỈM CƯỜI, VẪY CHÀO LẦN CUỐI...


 Bìa sách do Lê Thiết Cương vẽ

CHÀO CẬU NHÉ, LÊ THIẾT CƯƠNG <3
Bọn mình biết nhau thật ra cũng chưa lâu cậu nhỉ, khoảng 15 năm thôi chứ mấy. Đấy là sau khi mình xuất bản cuốn sách Khảo cổ học bình dân Nam bộ, trong đó có mấy bài về đồ gốm. Câu đã mua đọc và “găm” mấy câu hỏi cho tác giả.

Một dịp nào đó, Hà Phạm rủ mình lần đầu đến nhà cậu xem trưng bày những tác phẩm gốm của cậu. Và thế là bọn mình nói chuyện như đã quen nhau từ lâu, tranh luận mãi về gốm xưa gốm nay... Được cái cả hai đứa mình đều mê gốm đất nung, và hơn nữa, đều “mở lòng” với những dòng gốm mới, nên kiểu gì cũng tìm được ý tưởng chung (nếu không thì mình cũng phải “nhường” cậu, vì chả ai cãi lại được bọn tuổi Dần, mình thật). Có lần anh Trịnh Tú nói: Cương có sự khe khắt của nhà khoa học, còn Hậu lại có sự phóng khoáng của dân nghệ sĩ, nhưng đều nghiêm túc, nên hợp nhau là phải.
Từ phòng khách có ngọn đèn vàng, ánh sáng luôn phản chiếu lên những đồ gốm nho nhỏ, những bức tượng cũng nhỏ, và những ly rượu luôn óng ánh óng ánh. Ở đó mình hay được ngồi với anh Trịnh Tú và nhiều bạn chung của cậu và mình. Mình chả là ai so với những người nổi tiếng quanh cậu, nhưng cậu luôn dành cho mình tình cảm ấm áp: tặng mình những tập tranh của cậu, vẽ minh họa cho nhiều tản văn đăng trên báo của mình, rồi vẽ bìa cho cả cuốn truyện “tự sự” VẪN CÒN NHỚ NHAU. Và cậu luôn nhắn mỗi khi biết mình ra HN “đến uống rượu nhé”.
Thỉnh thoảng bọn mình vẫn chia sẻ với nhau những nghĩ suy về di sản văn hóa và bảo tồn như thế nào. Cậu rất yêu gốm Nam bộ... mình luôn nhớ câu này của cậu trong một bài trò chuyện chung: “Đất nào, nước nào thì người đó, mà con người nào thì sản phẩm đó. Người Nam Bộ làm ra gốm Nam Bộ, cởi mở đón nhận nhưng vẫn giữ được nét đặc sắc vốn có của mình”.
Vậy mà dự định làm chung cuốn sách ĐỐI THOẠI GỐM thì mãi không thành... Vì cậu còn nhiều việc, còn chưa thật thanh thản cho một cuộc chơi cần nhiều suy tưởng và thật bay bổng. Nhưng cậu luôn dành cho các bậc tiền bối, cho bạn bè sự tận tâm nhất, cả ý tưởng, sức lực và tiền bạc.

Buông tay là nhẹ nhàng cậu nhé! Và khi gặp anh Trịnh Tú thì cậu hãy nói rằng: cái Hậu nó buồn anh và em đấy, vì đã rủ nhau bỏ đi trước, quá sớm...

SG 17.7.2925

https://tuoitre.vn/vinh-biet-nguoi-tai-hoa-trong-tinh-le-thiet-cuong-20250715225540177.htm?gidzl=lJ3WL0HdztozAkDK07lnVhuix5KOAlyhyokvLqih-2xxVkK1GI-aB_nyk0b0UgftyNksNMA8OoKV1shmV0&fbclid=IwY2xjawLl2GFleHRuA2FlbQIxMQABHtepMluDnAVjA16ukG1kQTfbe-8OZ3lnAvZHFxHKik5DtTm46dbIAeBDO0F6_aem_wvRu1MubLriqDehgQPkYwg

Xanh hóa giao thông không thể chỉ dựa vào ‘trụ cột’ xe điện (Mục Nhĩ - Thời báo kinh tế Sài Gòn)

 (KTSG Online) - Thay vì quy hoạch khu vực cấm xe xăng dầu và xem xe điện như là giải pháp xanh hóa giao thông chính, chính quyền cần xây dựng phương án tổng thể, tính đến các loại xe phát thải thấp sắp phổ biến. Cần hiểu đúng bản chất của giao thông xanh là giảm lượng khí phát thải từ động cơ đốt trong để kế hoạch xanh hóa không bị "cột" với xe điện.


Xanh hóa giao thông là xu thế tất yếu mà toàn thế giới đang hướng tới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế tiến bộ này, do đó năm 2021 tại COP 26 (1) Chính phủ đã cam kết mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.

Tuy nhiên, xanh hóa giao thông bằng cách quy hoạch khu vực cấm xe xăng dầu trong nội đô và bắt buộc chuyển sang xe điện như các phương án đang được bàn đến tại các đô thị lớn như Hà Nội (2), TPHCM (3) mới là "điều kiện cần".

Còn hàng loạt "điều kiện đủ" phải tính đến trước: ngắn hạn thì có nguồn điện xanh để sạc, hạ tầng trạm sạc, an toàn cháy nổ và dài hạn thì phải tính đến phương án xử lý lượng pin xe điện khổng lồ sẽ bị thải ra sau vòng đời 10-15 năm sử dụng.

Với khu vực quy hoạch cấm xe xăng dầu dự kiến nói trên thì lượng xe điện sẽ tăng vọt rất nhanh vì không chỉ người dân trong khu vực mà rất nhiều người dân sống bên ngoài khu vực cũng cần đi vào hàng ngày, tất nhiên họ bắt buộc phải chuyển sang dùng xe điện mới đi vào được.

Việc quy hoạch hẳn một vành đai nội đô cấm xe xăng dầu, chỉ cho phép xe điện lưu thông đặt ra hàng loạt bài toán khó không dễ giải quyết. Nếu muốn kế hoạch này thành công, hạ tầng cung cấp điện, trạm sạc, phòng chống cháy nổ pin và tái chế pin phải được tính trước rồi mới tính đến triển khai đại trà xe điện.

Đầu tiên là hạ tầng trạm sạc, thiết bị sạc tại nhà và nguồn điện cung cấp để sạc xe sẽ tăng thêm bao nhiêu? Với mức dung lượng bình quân pin xe ô tô là 50 kWh và xe máy là 3 kWh thì lượng điện tăng thêm mỗi tháng là một gánh nặng hàng triệu kWh cho lưới điện. Khi nguồn tiêu thụ điện tăng vọt do hàng trăm ngàn xe điện cùng sạc thì liệu hạ tầng cấp điện gồm trạm biến áp và đường dây cấp điện sẽ quá tải nhanh chóng nếu không được nâng cấp trước.

Đó là chưa kể về "thực chất xanh" sẽ không đạt được nếu sạc pin từ nguồn điện tạo ra từ than và dầu vốn đang rất phổ biến ở Việt Nam. Muốn "xanh thật" thì xe điện phải được sạc bằng điện xanh, tức điện từ thủy điện, điện gió, điện mặt trời.

An toàn cháy nổ là vấn đề hàng đầu không thể bỏ qua. Pin xe điện phổ biến là loại lithium khi cháy sẽ là thảm họa khủng khiếp vì đây là phản ứng hóa học cháy không cần oxy, tạo ra khói độc dày đặc và nhiệt độ lên đến 700 độ C. Không thể dập tắt đám cháy pin lithium bằng bình chữa cháy thông thường dùng CO2 hay bình bột như đám cháy xăng dầu mà phải dùng loại bình chữa cháy đặc dụng giá từ 2 triệu đồng trở lên, cao gấp hàng chục lần bình chữa cháy thông thường.

Thói quen đậu xe máy trong nhà của người dân sẽ khó thay đổi khi chuyển sang dùng xe điện. Đó là chưa kể dù không muốn đậu trong nhà thì họ không dễ đem xe đi gởi vì hai lý do: không dễ tìm chỗ nhận giữ xe điện và người dân không muốn phải tốn kém thêm một khoản tiền gởi xe hàng tháng.

Đậu xe máy điện trong nhà nhưng không phải nhà người dân nào cũng có đủ chỗ để thiết kế chỗ sạc an toàn. Thử hình dung, làm sao quản lý an toàn cháy nổ xe điện khi có hàng trăm ngàn xe máy điện cắm sạc trên một vùng rộng lớn của thành phố. Đó là chưa kể rất nhiều khu vực hẻm nhỏ, chật chội không có đường cho xe chữa cháy vào nếu chẳng may xảy ra hỏa hoạn.

Một vấn đề cũng phải đặt ra ngay từ bây giờ: tái chế pin xe điện. Bài học từ nước láng giềng Trung Quốc cho thấy, sau chu kỳ 10-15 năm, núi pin phế thải từ hàng triệu xe điện là nguồn ô nhiễm không dễ giải quyết nếu không có kế hoạch ngay từ bây giờ.

Quay lại với bản chất cốt lõi là giảm lượng khí phát thải từ động cơ đốt trong thì xanh hóa giao thông có nhiều cách, miễn là sử dụng các loại xe có mức phát thải thấp hay bằng 0. Cách tiếp cận này sẽ giúp có một lộ trình hợp lý, đón đầu các loại xe công nghệ mới trong tương lai gần. Đây là nền tảng tiếp cận trên cơ sở khoa học để chính quyền và doanh nghiệp cùng đồng hành xây dựng giao thông xanh với sự tham gia tự nguyện của người dân.

https://thesaigontimes.vn/xanh-hoa-giao-thong-khong-the-chi-dua-vao-tru-cot-xe-dien/?fbclid=IwY2xjawLkRAFleHRuA2FlbQIxMQABHjx4qxL6tYBGebrkSS_DL3JqwRGH5vFAseRMf86kHvR5ErmYGbvoiVlrGD9x_aem_8_YhC8LWxSd3qBkxvBNR2A

Nhật Bản giảm phát thải thành công dù không "xe điện hóa"

Nói về chống ô nhiễm không khí, đặc biệt là giảm khí thải nhà kính từ xe hơi, xe máy dùng nhiên liệu xăng dầu, cách giải bài toán ô nhiễm của người Nhật rất đáng để Việt Nam tham khảo vì họ đã làm đúng bản chất cốt lõi của Net Zero: kéo giảm khí thải từ động cơ đốt trong. Cho đến nay, Nhật Bản vẫn là quốc gia hàng đầu thế giới về kiểm soát tốt ô nhiễm khí thải động cơ.

Gần 30 năm trước, năm 1997 người Nhật đã đi tiên phong trong giao thông xanh khi đưa ra mẫu xe Toyota Prius lai xăng - điện (hybrid). Thế nhưng, ngay trong làn sóng xe điện toàn cầu dâng cao kỷ lục ở giai đoạn 2020-2023 thì các hãng xe Nhật vẫn trung thành với mục tiêu kéo giảm phát thải bằng động cơ đốt trong thế hệ mới, động cơ hybrid, nhiên liệu sinh học và đang theo đuổi mục tiêu lớn hơn như pin nhiên liệu, động cơ hydro.

Nhật Bản là quốc gia đứng thứ 6 thế giới về số lượng xe trên đầu người với 659 xe/1.000 người dân, cao gấp 10 lần so với Việt Nam nhưng người Nhật không xanh hóa giao thông dựa vào xe điện. Dù thận trọng nhưng cách tiếp cận giao thông xanh của Nhật Bản vẫn đạt kết quả tốt: tổng phát thải từ ngành giao thông đường bộ Nhật năm 2015 khoảng 188 triệu tấn CO2 thì đến năm 2022 giảm còn 165 triệu tấn (4).

MỘT BÀI PHỎNG VẤN KHÔNG... ĐĂNG

 Chả biết lý do thật sự là gì? chỉ biết là bạn nhà báo (của một tờ báo diện tử cũng to phết!) tha thiết mởi mình trả lời, dù mình rất bận vẫn thu xếp thời gian trả lời bạn trước thời hạn. Mãi không thấy lên bài... Mình phải nhắn hỏi, thì mới trả lời "không tập hợp được ý kiến chuyên gia nên... thôi, không đăng".
Không đăng thì mình đăng trên trang nhà thôi :)

VỀ VIỆC ĐẶT ĐỊA DANH CHO ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH MỚI

- Theo chị, việc đặt tên tỉnh thành, làng, xã nên dựa vào những tiêu chí nào?

“Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng”. Địa danh phản ánh quá trình hình thành, đặc điểm văn hóa và các yếu tố địa lý tự nhiên, phản ánh nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của từng địa phương. Địa danh còn thể hiện lịch sử thiết lập làng, xã, vai trò của các dòng họ, quá trình thiết lập, thay đổi về hành chính của từng thời đại... Địa danh có tính lịch sử, tính đa dạng về ngôn ngữ vì địa danh thuộc đất nước/vùng miền/cộng đồng tộc người nào, sẽ thường mang ngôn ngữ của dân tộc, vùng miền, đất nước đó.

Vì vậy, hệ thống địa danh dân gian hình thành “tự phát” thường ghi nhận các yếu tố địa lý – địa hình tự nhiên, văn hóa/ngôn ngữ cộng đồng. Địa danh hành chính do chính quyền thiết lập, có khi ghi nhận địa danh dân gian, có khi đặt địa danh mới mang tính khái quát về địa phương, hoặc là “mỹ tự” thể hiện mong muốn phát triển tốt đẹp. Những đặc điểm này chính là “tiêu chí” của địa danh.  

- Một thời, những cái tên như Hà Nam Ninh, Gia Định, Chợ Lớn gắn với các vùng đất mà khi mất đi sẽ gây thương nhớ. Theo chị, điều gì khiến những cái tên đó được lưu giữ trong ký ức người dân?

Đó là những địa danh hành chính xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mang tính khái quát và hợp lý của một khu vực. Đồng thời quy mô tổ chức hành chính, không gian địa – văn hóa của địa danh ấy ổn định, gắn bó chặt chẽ và tồn tại trong thời gian khá dài nên tạo thành bản sắc riêng, được dùng để  nhận diện một cộng đồng. Vì vậy khi địa danh mất đi – tức là có sự “chấm dứt” một giai đoạn lịch sử hoặc sự thay đổi không gian lịch sử - văn hóa - dễ dẫn đến tình trạng “mất nhận diện” bản sắc cộng đồng địa phương. Những địa danh hành chính lịch sử như vậy rất quan trọng vì đã trở thành một “dấu chỉ” văn hóa hay một dấu ấn lịch sử của một địa phương, vì vậy nó được lưu giữ trong ký ức cộng đồng khá lâu bền.

- Theo chị, tên mỗi địa phương có ý nghĩa thế nào với lịch sử phát triển của nơi đó?

Địa danh dân gian thường là tên gọi nơi chốn, địa hình cảnh quan tự nhiên... ở một khu vực, vùng miền, một đất nước... Địa danh dân gian thường biểu hiện bằng ngôn ngữ địa phương nên đa dạng, phản ánh lịch sử và văn hóa cộng đồng. Địa danh dân gian tồn tại trong ngôn ngữ, thói quen sử dụng, ký ức của cộng đồng.

Địa danh hành chính là địa danh ghi trên văn bản do chính quyền nhà nước ở trung ương ban hành, được coi là tên gọi chính thức của các cấp hành chính như thôn, làng, xã, huyện, tỉnh, quận, thành phố, công trình nhân tạo (như kênh đào)... Địa danh hành chính phản ánh lịch sử (thay đổi) địa giới, có thể sử dụng địa danh dân gian hay đặt ra tên gọi mới, có thể thay đổi theo tổ chức hành chính hoặc sau những biến cố, sự kiện lịch sử. 

Như vậy có thể nhận thấy, địa danh dân gian hay hành chính đều bắt nguồn từ thực tiễn và phản ánh đời sống xã hội - lịch sử - văn hóa. Vì vậy, hệ thống địa danh của một địa phương rất quan trọng, có giá trị để “nhận diện” sự khác biệt, độc đáo, có trường hợp trở thành một “thương hiệu”. Đó chính là di sản văn hóa - nguồn vốn xã hội và tài nguyên bản địa. Việc thay đổi hay xóa bỏ các địa danh không chỉ làm mất đi một di sản văn hóa, cắt đứt ký ức lịch sử mà còn làm mất đi một nguồn “vốn xã hội” từ giá trị văn hóa của địa danh, làm nghèo tiếng Việt vì mất đi sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ vùng miền.

Điều này có thể gây nên tâm lý “mất quê hương”, ký ức cộng đồng bị mất gốc rễ, làm giảm sự gắn bó, yêu quý và cống hiến của cộng đồng - chủ thể của lịch sử - văn hóa địa phương. Trong thời đại phát triển toàn cầu hiện nay khi lượng thông tin được “sản sinh” rất nhiều và cũng nhanh chóng biến mất, càng cần phải bảo tồn các địa danh cũ, vì nó sẽ bị quên lãng trong ký ức và ngôn ngữ của cộng đồng nhanh hơn thời đại trước rất nhiều!

- Trong bối cảnh sáp nhập hiện nay, cách đặt tên tỉnh thành, làng, xã thế nào cho phù hợp, vừa đáp ứng tinh gọn mà vẫn có ý nghĩa văn hóa, lịch sử?

Quy mô tổ chức và quản lý hành chính của một địa phương (trong thời kỳ hòa bình, ổn định)  thường căn cứ trên không gian địa – văn hóa và địa – kinh tế. Cả hai yếu tố này đều có tính lịch sử. Khi tổ chức địa giới hành chính mới dựa vào hai tiêu chí này thì đó là cơ sở đặt/sử dụng địa danh một cách phù hợp. Bởi vì địa danh mới cần phải vừa HỢP LÝ (mang tính khoa học, tính đại diện cao, tính lâu dài), vừa HỢP TÌNH (thuận tiện trong sử dụng, giữ gìn sự đa dạng về ngôn ngữ, có sự đồng thuận của cộng đồng).

Khi thay đổi địa giới hành chính cần có tiêu chí rõ ràng, sau đó tổ chức tham khảo ý kiến những nhà nghiên cứu Hán - Nôm, chuyên gia về văn bản học, hành chính học, nhà nghiên cứu lịch sử địa phương, thu thập nguyện vọng của cộng đồng, xem xét các địa danh từng có trong lịch sử để có thể sử dụng.

Ưu tiên lưu giữ các địa danh truyền thống, hoặc đặt địa danh mới mang tính đại diện của các đơn vị hành chính cũ. Đó chính là sự duy trì và tiếp nối các yếu tố lịch sử, văn hoá của đơn vị hành chính mới, tập hợp địa danh các địa phương cũ hay mới đều phản ánh lịch sử của cả đất nước.

 TS Nguyễn Thị Hậu, Tổng Thư ký Hội Sử học TPHCM

Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'ĐÁNG ỦY HỘI ĐỐNG NHÂN DÂN ỦY BAN NHÂN DÂN ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM PHƯƠNG SẢI GÒN PARTY COMMITTEE PEOPLE'S COUNCIL- PEOPLE'S COMMITTEE- VIET NAM FATHERL FRONT COMMITTEE SAI GON WARD SỐ 45 47, ĐƯỜNG LÊ DUẨN, THÀNH PHỐ HÓ CHÍ MINH'

 


Một bài hát phổ thơ của HKC

 BOLERO THÀNH PHỐ

Buổi sáng trôi qua, bỏ lại sương mai trong trẻo tan dần
Buổi chiều trôi qua, bỏ lại tia nắng dịu dàng dần tắt
Buổi tối trôi qua, bỏ lại thành phố lặng dần tiếng động
Cơn mưa đi qua, bỏ lại đường ngõ thành sông thành suối
Ngọn gió đi qua, bỏ lại lá vàng lang thang
Cuộc trò chuyện đi qua, bỏ lại trong ta nỗi nhớ…
Một người đi qua, mang theo giọt sương mang theo lá vàng mang theo tia nắng
Bỏ lại nơi này không ngừng cuộn sóng một dòng sông…

Mời các bạn cùng nghe nhé <3




Đi tìm viếng mộ Trương Minh Ký: Dấu vết danh nhân kẹt giữa bêtông đô thị (Lam Điền)

 https://tuoitre.vn/di-tim-vieng-mo-truong-minh-ky-dau-vet-danh-nhan-ket-giua-betong-do-thi-20200716092857485.htm

Một buổi sáng tháng 7, nhóm mấy người yêu sử Sài Gòn bỗng nảy ra ý định đi tìm viếng ngôi mộ nhà văn Trương Minh Ký.

Ý tưởng này bắt đầu từ nhà giáo Trần Viết Ngạc và nhanh chóng được được ba nữ tiến sĩ là Bùi Trân Phượng, Quách Thu Nguyệt và Nguyễn Thị Hậu hoan hỉ đồng tình.

Chả là trong lúc lục soạn tài liệu viết về Trương Minh Ký và phái đoàn An Nam đi dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày Cách mạng Pháp (1789-1889), nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc xúc động trước tầm vóc của vị trí thức Nam Kỳ từng làm rạng rỡ học giới nước nhà ngay trước thềm thế kỷ 20.

Thế rồi từ Trương Minh Ký lại lần ra một danh nhân khác là Trương Minh Giảng, cùng họ và ở hàng ông nội Trương Minh Ký.

Cả hai đều là người Gia Định, cụ thể là nơi Hạnh Thông Tây đất Gò Vấp. Lần giở đến đó, ông Ngạc sực nhớ ra dường như ngôi nhà từ đường và mộ phần của cả hai ông danh nhân họ Trương này đều từng tọa lạc ở Gò Vấp.

Cuộc hẹn hò để tìm lại dấu tích người xưa khởi đầu như vậy.

Nhưng nhà từ đường và phần mộ của hai ông giờ ở đâu?

Nguyện vọng của những người yêu sử ngày nay muốn tìm lại dấu tích của tiền nhân - những danh thần có võ công văn nghiệp từng góp phần vun bồi mảnh đất phương Nam này - thật buồn cười là không biết bắt đầu từ đâu, dù đã tra thông tin trên mạng.

Tìm đến địa chỉ nhà từ đường họ Trương nhưng cổng đóng, còn phần mộ Trương Minh Ký và Trương Minh Giảng hỏi người xung quanh không ai biết cả.

Không nản, cả nhóm vẫn họp nhau cùng đi một chuyến. Sáng 15-7, mỗi người từ một hướng tụ lại để tìm đến ngôi từ đường ở phường 7, quận Gò Vấp với ý định vào thắp hương viếng nhà họ Trương trước khi viếng mộ.

Thời may, xóm giềng thấy một nhóm người ở đâu lạ hoắc kéo đến gọi cổng mới chỉ tay bảo đi vòng cổng nhỏ phía sau tận bên kia mới gọi được người bên trong. Thì ra nhà từ đường vẫn còn người cháu tên Thanh đời thứ 5-6 (?) trông coi.

Ông Thanh năm nay gần sáu mươi tuổi, nhanh nhẹn giới thiệu gian chính từ đường, giới thiệu ngôi mộ bà hội đồng là vợ của ông Trương Minh Giảng, rồi dẫn cả nhóm đi đến vị trí ngôi mộ Trương Minh Giảng, thì hỡi ôi ngôi mộ bề thế diện tích rộng hơn một ngôi nhà phố hiện đã bị người dân lấn chiếm, chất gạch đá bít lại và xây nhà lấn mất cả đầu mộ.

Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc không kể tuổi tác năm nay đã ngoài tám mươi, cố gắng vẹt cành cây leo vào bên trong bức tường tạm do những người lấn chiếm che chắn, tận mắt chứng kiến nền nấm mộ vẫn còn giữa bộn bề xà bần tạp nhạp.

Lật đá vin cành nhìn ngó một hồi, chợt thấy bức tường chân mộ đã gãy đổ nhưng trên phần còn lại hãy còn lờ mờ một số chữ Hán rêu đã bám dày.

Giá mà ngôi mộ này sớm được giữ gìn vẹn toàn thì đây hẳn là một di tích đáng kể của thành phố. Nhìn những chữ Võ, chữ Chương, chữ Vật, chữ Tam... còn lờ mờ trong rêu phủ, lòng bùi ngùi khó tả.

Theo ngõ hẻm ngoằn ngoèo đi một đoạn nữa là đến nhà mồ Trương Minh Ký. Cũng chịu cảnh bốn bên lấn chiếm xây nhà đến nỗi không ai ngờ giữa ngần ấy công trình bêtông nay vẫn còn lọt thỏm bên trong là một ngôi nhà mồ của vị văn nhân nổi tiếng - là dấu gạch nối vắt từ thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 trong hành trình văn chương quốc ngữ của nước nhà.

Theo lời ông Thanh, chỗ này là một phần trong khuôn viên đất nhà họ Trương trước kia rộng đến hàng mẫu. Nay giấy tờ thì còn nhưng chỗ này từ lâu nấm mộ đã bị san phẳng, ngôi nhà mồ còn trơ xương - dấu tích xây dựng thời Pháp thuộc trên đất Gò Vấp.

May sao chiếc bia bằng đá hoa cương trên có ghi "CI GIT. Thế Tải Trương Minh Ký. Hàn lâm học sĩ, Tây chức thông sự" bị mẻ góc trên bên trái vẫn còn được ông Thanh gìn giữ, dựng bên án thờ tạm bợ để có chỗ thắp hương tưởng nhớ một bậc tiền hiền.

Đây là ngôi nhà mồ song táng, giờ chỉ còn lờ mờ dấu vết hai khuôn hình chữ nhật trên nền ximăng, là nơi vợ chồng nhà văn Trương Minh Ký từng chọn làm nơi gửi nắm xương sau một đời tận dốc lòng tận hiến cho quê hương.

Cây bút và danh thần lừng lẫy

Theo nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc, Trương Minh Ký viết khoảng chục đầu sách, từng làm chủ bút Gia Định Báo đến 16 năm, chính là một "công thần" khai mở chữ quốc ngữ thời kỳ đầu.

Ông vốn tên thật là Ngôn, nhưng vì theo học thầy Trương Vĩnh Ký, rất hâm mộ và nể phục thầy, nên ông thêm vào tên Ngôn của mình chữ Kỷ nữa, là thành chữ Ký.

Và văn đàn Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 chứng kiến hai cây bút lừng lẫy đều họ Trương tên ký là thầy trò Trương Vĩnh Ký và Trương Minh Ký.

Trương Minh Giảng còn là vị danh thần lừng lẫy hơn.

Trương Minh Giảng từng làm tổng tài Quốc sử quán chủ trì biên soạn bộ sử thực lục cho triều đình, lại từng cầm quân đánh giặc Xiêm, đánh qua khỏi đất Cao Miên, được vua phong tước Bá, là người có công xây dựng mối quan hệ giữa nhà Nguyễn với Cao Miên, được vua cho giữ đất Trấn Tây Thành.

Chính ông xứng đáng xem là vị tướng viễn chinh sớm nhất của Việt Nam thời cận đại với ấn chương "Trấn Tây Thành tướng quân" mà ông Trần Viết Ngạc còn giữ được hình ảnh.


Cả nhóm chụp với ông Thanh trước cổng từ đường - Ảnh: L. ĐIỀN


Góc tường phía chân mộ Trương Minh Giảng còn lờ mờ các chữ Hán trong rêu - Ảnh: L. ĐIỀN


Bên ngoài nhà mồ Trương Minh Ký, hiện lọt thỏm giữa các nhà cao xung quanh - Ảnh: L.ĐIỀN






VỀ NHỮNG TÁC PHẨM "NHÌN LẠI QUÁ KHỨ"

Đọc THUYỀN của NGUYỄN ĐỨC TÙNG.

Có lẽ đã có nhiều bài viết rất hay về cuốn sách này qua hai cuộc giới thiệu sách và gặp gỡ tác giả ở HN và Huế, nói khá đầy đủ về nội dung, bút pháp, tâm thức, cảm xúc... của người viết và nhiều người đọc. Tôi là một người đọc bình thường, và là người trong một gia đình cũng có những người ruột thịt đã vượt biển vào khoảng thời gian được kể lại trong THUYỀN.

Tôi đọc THUYỀN trong một buổi chiều Sài Gòn mưa tầm tã, cảm giác bị lạc trong màn mưa dày đặc tối trời có lẽ góp phần làm cho tôi đồng cảm sâu sắc hơn về nỗi bất an và tai họa của những người trên THUYỀN qua từng trang sách của Nguyễn Đức Tùng.
Khép lại trang cuối, tôi bỗng nhớ tới một từ tôi học được từ những ngư dân đảo Lý Sơn. Cứ sau mỗi chuyến đi biển gặp bão tố hay tai họa, trở về bờ một thời gian sau họ vẫn còn một cảm giác, gọi là SAY BỜ.

Có lẽ THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng chính là cảm giác Say Bờ... Đến bờ, ở trên bờ đã rất lâu, nhưng những gì chứng kiến, trải qua trên biển vẫn còn đó, không dữ dội hoảng loạn nhưng vẫn đầy ám ảnh và đau đớn...


Phim THE READER (ĐỘC GIẢ - 2008) 

Tôi xem lại phim Độc giả (The reader) giữa những ngày tình hình Israel và Iran đang ác liệt.Điều làm tôi nhớ để xem lại phim này (dù xem đã lâu) chính là đoạn cuối. Luật sư Michael đến Boston tìm gặp một nạn nhân của trại tập trung, nơi mà Hanna từng làm cai ngục ở đó. Khi ấy nạn nhân ấy là một cô bé bị bắt cùng cả gia đình. Tại phiên tòa xử Hanna, Michael đã gặp hai mẹ con nạn nhân với tư cách là nhân chứng. Và bây giờ khi Hanna đã chết, anh tìm đến người phụ nữ này để thực hiện “di chúc” của Hanna.

Machael đưa cho cô ấy chiếc hộp trà bằng sắt trong đó có tiền mà Hanna muốn gửi lại cho cô gái với lời nhắn “tùy ý sử dụng”. Người phụ nữ nói, đại ý:
- Tôi chẳng thể làm gì với số tiền này. Nếu tôi đưa cho một tổ chức nào đó liên quan đến cuộc diệt chủng Do Thái, tôi thấy như mình đang xá tội. Tôi không muốn và không đủ tư cách làm vậy.
Michael trả lời: Tôi đang nghĩ đến một tổ chức thúc đẩy xóa mù chữ chẳng hạn?
- Tốt lắm. Người phụ nữ trả lời
Michael như trút được gánh nặng, anh hỏi: cô có biết một tổ chức Do thái nào không?
- Lĩnh vực nào cũng có tổ chức Do Thái. Nhưng mù chữ cũng là vấn đề lớn của người Do Thái. Sao anh không tự tìm và gửi tiền cho họ?
Người phụ nữ giữ lại chiếc hộp trà bằng thiếc... nó gợi cho cô nhớ lại chiếc hộp đựng kỷ vật mà hồi nhỏ cô mang vào trại tập trung, nhưng đã bị lấy mất vì có những dòng chữ Do thái trên đó.
Chỉ một đoạn ngắn thôi mà để lại quá nhiều suy nghĩ và liên tưởng.
Trải qua những tội ác trong chiến tranh (và cả tội ác thời hậu chiến), sự trừng phạt, trả thù không bao giờ mang lại cho nạn nhân (của cả hai thời kỳ) sự quên lãng. Vì vậy tha thứ hay khoan dung đều hề không dễ dàng. Muốn hay không muốn tha thứ chỉ là chuyện cá nhân, nhưng quan trọng hơn là có thẩm quyền để làm điều đó hay không? Thẩm quyền ấy, thường là của cả một cộng đồng từng là nạn nhân, từng phải chịu đựng bất công, tội ác! Thẩm quyến của cộng đồng sẽ quyết định hành xử tha thứ hay không. Nhưng cộng đồng lại là tập hợp của nhiều cá nhân. Ý chí của cá nhân có thể tác động đến ý chí cộng đồng hay không?
Như trong THE RAEDER, cả hai bên đều chân thành, tôn trọng sự thật lịch sử và “cảm xúc lịch sử” của nhau. Vì vậy đã bắt đầu “đến gần nhau hơn” từ một điểm chung: nhìn nhận và góp phần giải quyết những vấn đề của ngày hôm nay. Chưa thể tha thứ cho quá khứ nhưng có thể cùng thay đổi hiện tại và tương lai! Cũng là cách tự hòa giải với ký ức đau buồn của chính mình!
Tôi xem khá nhiều phim nước ngoài có chủ đề chiến tranh và hòa giải, và những phim ấy đều mang thông điệp nhân văn: con đường hòa giải với ký ức có quá nhiều cái hố của thù hận, chia cắt. Muốn thay đổi cần bắt đầu từ một hòn đá có khi chỉ đủ chèn vào một hố nhỏ trên đường, giúp cho một người đi đường không vấp té... Và cứ thể, mỗi người với từng viên đá nhỏ có thể giúp con đường bằng phẳng hơn, chứ không dùng để đào thêm những hố sâu và gây thêm thương tích cho chính mình, cho người khác... Cần lắm, sự kiên nhẫn và lòng khoan dung.

20.6.25
#vaiphimvuaxem [lâu qúa mới viết lại mục này]
Tìm mãi mới có 1 tấm hình của đoạn phim trên 🙂



T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i

  Bùi Chát T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i Câu hỏi “Bùi Chát đa...