TỪ MÙA THU CÁCH MẠNG

 https://congan.com.vn/tin-chinh/tu-mua-thu-cach-mang_182033.html

Nguyễn Thị Hậu

Mỗi năm gần đến ngày Quốc khánh 2/9 – là ngày Độc Lập theo cách gọi quen thuộc trong gia đình tôi từ thời ông bà nội – tôi lại nhớ đến những gì ba tôi thường kể lại, về những ngày đi theo “tiếng gọi sơn hà” từ tháng Tám năm 1945.

Trước năm 1945, ba tôi tôi dạy học ở Cái Răng, một thị trấn nhỏ - nay là một quận của thành phố Cần Thơ. Sau đó được đổi về dạy ở quê nhà, trường huyện Chợ Mới – An Giang. Ba tôi viết trong hồi ký: Khi còn là một thầy giáo dạy ở trường quận, tôi đã mê diễn kịch, tôi hăng hái tập cho học trò hát những bài như: Tiếng gọi thanh niên, Bạch Đằng Giang, Kinh cầu nguyện, Xếp bút nghiên… Hè năm 1943, tôi tổ chức một đêm diễn: có hài kịch ngắn, có đồng ca, có đơn ca và bản thân tôi cũng tham gia diễn kịch. Buổi diễn khá thành công. Tôi viết thư về báo cho tía tôi. Tía ghi chú vào chỗ giấy còn trống trong thơ: “Tía coi thơ này mà rùng mình, rợn óc cho tương lai của con. Nếu tạo vật dắt đường cho con đi về con đường hát xướng thì đời con sẽ vất vả, nhưng mạng vận biết sao?”. 

Những ngày năm đó, chiều chiều, ba tôi hay lên cầu đúc, đứng dựa lan can nhìn xuống dòng nước phù sa cuồn cuộn, ngút ngát dòng sông về phía Cần Thơ, rồi đi xa, xa lắm… ông mơ một cuộc đời được đi khắp nơi cho thỏa chí tang bồng. Những chiếc xe du lịch sang trọng chạy qua chạy lại, trên xe là quan lại binh lính người Pháp, ba tôi chua xót nghĩ rằng, một thầy giáo nghèo như ông nhứt định là chết già ở một cái trường làng nào đó… Mơ làm gì những cuộc du lịch trên đất nước đang bị ngoại bang đô hộ!

Tháng 3/1945, quân Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Ngày 25/8/1945, nhân dân Sài Gòn giành chính quyền từ tay quân Nhật. Tuy nhiên, chỉ 28 ngày sau, quân Pháp với sự giúp đỡ của quân Anh đánh chiếm lại Sài Gòn. Ngày 23/9/1945 Nam bộ kháng chiến bùng nổ. Trong cái khí thế hùng dũng ban đầu của Cách mạng, ba tôi được cuốn theo làn sóng kháng chiến. Ông đến Ủy ban tỉnh An Giang, xin vào công tác. Cấp trên biết ông có chút ít kiến thức, lại có khiếu văn nghệ, nên phân công ông lo tổ chức một đoàn kịch. Vậy là cùng một số đồng chí, ba tôi thành lập Đoàn kịch Cứu quốc.

Khi ba tôi xin phép được “đi hát”, ông nội tôi suy nghĩ rồi nói “Tía xem đời Cụ Hồ chẳng khác nào như đức Thích Ca. Cụ là người như vậy, mà cụ cho hát, chắc là hát có ý nghĩa. Trào Tây, hát là xướng ca vô loại. Bây giờ, hát cho Chính phủ Cụ Hồ là hát cứu nước. Tía đồng ý cho con đi hát”. Ngày bác tôi và ba tôi ra bưng biền kháng chiến, ông nội đã khấn trước bàn thờ ông bà “Hôm nay con đưa hai con đi theo Cụ Hồ đánh Tây giành độc lập, không để cho thằng Tây ngồi lên đầu lên cổ dân mình. Con cháu có gì sai quấy mong Cụ dạy bảo. Cầu trời Phật ông bà phù hộ cho con cháu bình an!” Giản dị vậy thôi, bởi vì đối với ông nội tôi, Cụ Hồ là người vì dân vì nước. Sự giác ngộ đầu tiên của ba tôi và nhiều người cùng thế hệ ông là niềm tin vào tấm gương Cụ Hồ, dù chưa hiểu biết nhiều về “lý tưởng cộng sản” nhưng họ là những người yêu nước nên đã tích cực tham gia Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.

Kể từ ngày đó, ba tôi và đoàn hát của ông đã vượt qua chín năm dài khó khăn và ác liệt, đi bộ chèo ghe băng đồng lội nước lưu diễn khắp miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những ngày này ba tôi đã sáng tác nhiều ca khúc như Hồn thiêng chiến sĩ, Tuyên truyền lưu động, Làn sóng dân chủ, Tháp Mười anh dũng... Nhưng trong đó ca khúc “Cương quyết ra đi”sáng tác ngày đầu khánh chiến  là một bài hát được nhiều người yêu thích và thuộc lòng. “Cờ Việt Nam bao năm nhuộm máu hùng anh... Ta ra đi mùa thu xa xưa ấy, vung gươm thiêng ta cắt đứt đường tơ vương”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng – một học trò của ba tôi - cũng nhớ lại: “Kháng chiến. Học trò trở về trường nhưng thầy không dạy nữa, thầy đã vào bưng biền rồi, thầy đã “Cương quyết ra đi” như lời bài hát đầu tiên của thầy vang trên khắp nẻo đường kháng chiến. Thầy lập đoàn hát “Cứu quốc đoàn”, “Tuyên truyền xung phong” từ sông Tiền dài xuống sông nước vùng đất U Minh, từ đó thầy gắn cuộc đời mình với sân khấu, từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc trở về Nam cho đến hết cả cuộc đời”.

Tại bưng biền miền Tây, ba tôi cùng đoàn “Truyền bá vệ sinh” sáng tác và biểu diễn những vở kịch, bài ca vui nhộn, sinh động mà rất khoa học để tuyên truyền cho đồng bào giữ vệ sinh nhà ở, nhà tắm, cầu tiêu, giữ sạch môi trường sinh sống như kinh rạch, vườn tược, góp phần bảo vệ sức khỏe và tránh các dịch bệnh... Không nề hà bất cứ nhiệm vụ gì được giao, các đoàn hát của ông đi đến đâu cũng được đồng bào, chiến sĩ yêu mến, trông đợi... Nhờ đó, ông cũng “tuyển” được nhiều “diễn viên”. Sau này một số cô chú tập kết ra miền Bắc và trở thành những nghệ sĩ nổi tiếng.

Năm 1954, theo sự phân công của tổ chức, ba tôi cùng nhiều đồng nghiệp đi tập kết. Kế tiếp là những năm dài ông thường xuyên vắng nhà vì những chuyến lưu diễn khắp nơi của Đoàn Cải lương Nam bộ, Đoàn kịch nói Nam bộ mà ba tôi làm trưởng đoàn: rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương, đường 559 Trường Sơn… Cho đến tháng 4.1975 ông được trở về Sài Gòn, về An Giang quê hương yêu dấu sau hơn hai mươi năm “ngày Bắc đêm Nam”.

***

Những câu chuyện trong gia đình tôi về sự tham gia kháng chiến của thế hệ ông cha luôn thể hiện đạo lý “Giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha”. Đây được coi là một tính cách nổi bật của người Nam bộ. Tính cách này được hình thành từ nguồn gốc của những thế hệ lưu dân vượt qua mọi hoàn cảnh nghèo khó, trốn tránh tù tội, chống lại sự áp bức… đi vào khai phá vùng đất mới, nơi trời cao đất rộng nhưng hoang sơ lạ lẫm, trên bờ cọp kêu dưới sông sấu táp, xung quanh đều là những người xa lạ. Vì vậy họ không câu nệ nguồn gốc dòng họ hay thân phận, “tứ hải giai huynh đệ”, bởi vì họ chỉ có một “cái vốn” mang theo để có thể sống: tình nghĩa và đoàn kết, trong hoàn cảnh ngặt nghèo nào cũng chống lại sự bất công. Từ khi Nam kỳ bị mất vào tay giặc Pháp, người dân Nam bộ không ngừng đấu tranh, bởi không cam chịu sự bất công lớn nhất là dân tộc Việt bị mất nền độc lập - tự do.

Câu chuyện đi theo cách mạng của ba tôi và của nhiều chú bác cùng thời rất tự nhiên và giản dị như lẽ sống đời thường. Từ một thầy giáo “ham đờn ca hát xướng”, ông đi kháng chiến đánh Tây bằng cách góp công sức làm nghệ thuật phục vụ đồng bào, chiến sĩ. Lý tưởng “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đã được thế hệ “Mùa thu rồi ngày hăm ba...” hy sinh cuộc sống cá nhân, hy sinh của cải, tính mạng để dành lấy cho đất nước. Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên ba tôi được trở về quê nội, đừng trước bàn thờ ông bà, ông kính cẩn thưa rằng: Ba ơi! Khi con về thì ba má không còn nữa. Nhưng con đã cố gắng làm tròn lời ba căn dặn khi ba phó thác con cho Bác Hồ dạy dỗ: Con theo Cụ Hồ ra đi làm việc nước, đánh Tây giành độc lập”.

 TP. Hồ Chí Minh, tháng 8.2025

*Ba tôi (người tóc bạc trắng, keo kiếng trắng) Nghệ sĩ ưu tú, đạo diễn Nguyễn Ngọc Bạch, Nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao TPHCM  cùng đoàn nghệ sĩ TPHCM tại HN trong dịp Đại hội Hội sân khấu toàn quốc lần thứ II - 1983



NHỮNG TRANG SỬ LIỆU THỜI ĐẠI DỊCH

 

Đọc cuốn sách “Sài Gòn bao thương” của nhà báo Kim Hạnh, những trang sử liệu về một giai đoạn “chưa từng có trong lịch sử Sài Gòn” hiện lên, sống động và đau đớn!

Về thời gian này, ký ức tôi luôn hằn sâu hai việc: Một là, tình trạng cả thành phố bị cô lập: trong nội thành thì bị giăng dây cách ly từng con hẻm, từng con đường, từng khu vực, thậm chí từng ngôi nhà… Các tỉnh giáp với thành phố thì “ngăn sông cấm chợ”, người trở về quê không được, lương thực, thực phẩm vào thành phố cũng không được luôn… Hai là, đã có lúc tình trạng vac-xin vô cùng căng thẳng, dù thành phố đã trở thành “tâm dịch” với mức độ ác liệt không ai có thể lường được! Rồi đâu đó, có thể do vô tâm, do chưa hiểu nên đã có những ứng xử, lời nói, thái độ - làm cho nhiều người Sài Gòn phải buồn lòng!

Nhưng Sài Gòn của tôi chỉ “buồn chút xíu” thôi, rồi tiếp tục oằn lưng chịu đựng và giúp nhau, và thương nhau hơn, và xăn tay lên làm mọi việc để chống lại, để vượt qua đại dịch. Và để hôm nay nhìn lại, Sài Gòn tự hào là cùng với sự trợ giúp lớn lao của cả nước, Sài Gòn vẫn tự mình làm tất cả những gì có thể để “tự cứu mình”.

Điều dễ thấy nhất qua những trang ghi chép này là trong một hoàn cảnh khắc nghiệt cụ thể, tính cách và phẩm chất tốt đẹp của NGƯỜI SÀI GÒN một lần nữa được khẳng định. Nghĩa tình của người Sài Gòn là nghĩa khí, là tình thương luôn thể hiện bằng hành động, bằng việc làm, không chỉ là những cảm thán, những hô hào suông.

 Nói đến Người Sài Gòn, người Nam bộ là nói đến chữ LÀM. Vùng đất lành thu hút bao người đến đây làm ăn, khó đến đâu cũng không than vãn, lúc ngặt nghèo qua rồi thì coi như “làm chơi ăn thiệt”. Trước thách thức khó khăn thì “làm đại đi, làm đại nghen!”. Làm đại không phải là làm liều, mà hành động ngay để vượt khó, chưa đúng thì cùng nhau sửa sai, không cầu toàn, không ngồi chờ người khác làm giùm. Và dù thành công hay thất bại thì “dám làm dám chịu” luôn là tính cách của người Sài Gòn.

Những con người trong cuốn sách này là những NGƯỜI SÀI GÒN như vậy! Từ anh công nhân, em sinh viên đến chị tiểu thương, ông doanh nhân, từ người ở hẻm nhỏ xóm nhà lá đến người nhà mặt tiền, ở biệt thự… tất cả đều lấy công việc làm đầu lấy tình nghĩa làm trọng. Sự giản dị, chân thành, nhiệt tình đến mức “bao đồng” của người Sài Gòn là nguồn lực mạnh mẽ giúp nhau vượt qua khó khăn, mang lại sự hỗ trợ vật chất và tinh thần quý giá cho những số phận không may sau đại dịch.

Những ngày đại dịch Covid-19 sẽ còn mãi trong ký ức chúng ta. Và tôi tin rằng, ký ức đó không chỉ là những tổn thất to lớn và đau đớn, mà là một Sài Gòn “bao thương”, gây nên “bao nhớ” cho những người đi xa, cho cả những người đang sống ở thành phố này!

Với riêng tôi cuốn sách như một công trình lịch sử từ góc nhìn xã hội, vì đã mang lại những thông tin xác thực, và cả nhiều điều khác ẩn sau từng dòng chữ! Xin cám ơn nhà báo Kim Hạnh, thật nhiều!

 Nguyễn Thị Hậu (vài lời ở phần cuối sách SÀI GÒN BAO THƯƠNG)





KHẢO CỔ HỌC ĐÔ THỊ - NHỮNG CHUYỆN BÊN BỜ ĐƯƠNG ĐẠI

 

1

Khoảng đầu thế kỷ 20 nhiều đô thị ở Việt Nam bắt đầu được quy hoạch và xây dựng theo kiểu phương Tây, tại trị sở các tỉnh thời Nguyễn. Ở trung tâm là công trình Dinh (Hotel de ville) và Nhà thờ lớn, xung quanh là các cơ quan hành chính và công trình công cộng, dịch vụ. Ngày nay đây chính là “vùng lõi di sản” của đô thị, nơi tích lũy các giá trị lịch sử - văn hoá quan trọng.

Bên cạnh di sản kiến trúc hình thành thời thuộc địa, các đô thị còn bảo tồn di sản truyền thống: Những ngôi đình, chùa, hội quán, đền miếu, nhà cổ, hoặc quần thể phố cổ như Hội An hay Chợ Lớn… Những công trình này hiện diện rải rác trong đô thị, có khi từng là trung tâm của làng cổ hay một cộng đồng. Quá trình đô thị hoá suốt thế kỷ 20 đã làm thay đổi cảnh quan, thậm chí huỷ hoại nhiều công trình kiến trúc cổ xưa.

Do mỗi đô thị có cảnh quan tự nhiên, địa hình và yếu tố văn hóa khác nhau nên di sản đô thị sẽ mang những đặc trưng riêng. Di sản đô thị, có thể hiểu một cách cụ thể, là tập hợp các địa điểm, vị trí, khu phố, các công trình và tập quán mà một xã hội được kế thừa từ quá khứ, muốn bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ tương lai. Đó là những công trình tiêu biểu của kiến trúc một thời, đồng thời ẩn chứa, lưu giữ trong nó biết bao ký ức và câu chuyện về lịch sử và con người đô thị. Trải qua quá trình lịch sử những đặc trưng về kiến trúc, cảnh quan trở thành bản sắc riêng của từng đô thị. Chính vì vậy các quốc gia đều coi trọng việc bảo tồn di sản đô thị.

2.

Liên quan đến nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị di sản đô thị có nhiều ngành khoa học và cơ quan quản lý nhà nước. Những năm gần đây khảo cổ học đô thị được coi là một ngành quan trọng trong quá trình này, bởi tính chất nghiên cứu vừa chuyên sâu vừa liên ngành. Qua đó góp phần tích cực vào thực tiễn bảo vệ và ứng dụng giá trị di sản vào quá trình phát triển đô thị.

Một vấn đề đặc biệt khó khăn là hiện nay trong quá trình đô thị hóa, nhiều địa phương không quan tâm giữ gìn bảo tồn công trình kiến trúc đô thị mà thường phá bỏ để xây công trình “hiện đại”. Điều đó thể hiện sự hiểu biết giá trị di sản văn hóa đô thị còn hạn chế, kéo theo sự “phủ nhận” những chứng tích lịch sử văn hoá thời cận – hiện đại.

Dưới lòng đất các đô thị còn có những di tích thời tiền sơ sử, bởi vì vị trí các đô thị cũng là khu vực thuận tiện cho các cộng đồng cổ xưa sinh sống: đồi gò cao, gần sông hay nơi các dòng sông giao nhau, khu vực cửa sông – vịnh biển… Hiện nay công tác khai quật di tích gặp nhiều khó khăn do đã có công trình kiến trúc đời sau xây dựng bên trên. Vì vậy, chỉ khi các công trình hiện hữu bị phá bỏ để xây dựng lại, hay giải toả xây dựng hạ tầng giao thông… thì khảo cổ học mới có điều kiện khảo sát, khai quật và nghiên cứu, đề xuất những giải pháp phù hợp.

Vì vậy hiện nay ở Việt Nam khảo cổ học đô thị chú trọng làm việc với các di tích còn tồn tại trên mặt đất: nghiên cứu, phân loại, xác định loại hình, chức năng, đánh giá tính chất, giá trị lịch sử - văn hóa. Từ đó đề xuất công tác khai quật, bảo tồn, trùng tu hay phục dựng nếu cần thiết. Đặc biệt đề xuất giải pháp phát huy giá trị di sản đô thị trong đời sống đương đại một cách phù hợp, mà điển hình là trường hợp Hoàng Thành Thăng Long.

2.     Thành phố Đà Nẵng nằm trong bối cảnh Địa – Văn hóa, Địa – Lịch sử của xứ Quảng, một vùng văn hóa đa sắc thái: núi, trung du, đồng bằng, ven biển, biển và đảo. Cửa sông Thu Bồn có Đại Chiêm hải khẩu được các chúa Nguyễn phát triển thành cảng thị Fai Fo – nay là Đô thị cổ Hội An di sản thế giới. Từ thế kỷ 19 Đà Nẵng là cảng biển phòng thủ quan trọng nhất của nhà Nguyễn, rồi trở thành quân cảng của Pháp, Mỹ trong hơn một thế kỷ chiến tranh. Nay Đà Nẵng là một trong 6 thành phố lớn của đất nước.

Tuy các đô thị được “định danh” là thành phố còn rất ít, nhưng xu thế đô thị hoá – hiện đại hoá là không thể đảo ngược. Vì vậy, dù với danh xưng gì thì Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ và những khu đô thị mới sẽ hình thành, vẫn cần bảo tồn được và phát triển những di sản đô thị và di sản truyền thống của mình.

Tính đến đầu năm 2025, tỉnh Quảng Nam cũ có 458 di tích được xếp hạng, trong đó có 04 di tích quốc gia đặc biệt (Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn vừa là di tích quốc gia đặc biệt vừa là Di sản Văn hóa thế giới), 67 di tích cấp quốc gia, 387 di tích cấp tỉnh. Ngoài ra, còn có Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An. Thành phố Đà Nẵng cũ có 88 di tích được xếp hạng, bao gồm 2 di tích quốc gia đặc biệt, 17 di tích quốc gia và 69 di tích cấp thành phố.

Như vậy hệ thống di tích của thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm đầy đủ các loại hình: Di sản thế giới, khảo cổ học, kiến trúc nghệ thuật, lịch sử cách mạng, danh lam thắng cảnh… Bên cạnh đó còn hệ thống di sản văn hoá phi vật thể, di sản tư liệu phong phú, đa dạng, chưa kể hàng trăm công trình, địa điểm trong danh mục Kiểm kê di tích theo quy định của Luật Di sản văn hoá.

Cũng như các thành phố khác, bảo tồn di sản đô thị ở Đà Nẵng gặp nhiều khó khăn do một quan niệm đã rất lạc hậu, đó là “mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển”. Bên cạnh các di sản vật thể được bảo tồn và phát huy giá trị (qua phát triển du lịch) như Hội An, Mỹ Sơn, Bảo tàng và các di tích trong thành phố, các làng nghề thủ công, Cù lao Chàm… thì nhiều thắng cảnh đã bị biến đổi do những công trình hiện đại (khu vực Bà Nà, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, ven biển từ Đà Nẵng đến Hội An…), làm giảm giá trị di sản tự nhiên và ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng. Cần lưu ý, bên cạnh hai Di sản thế giới thì các thắng cảnh núi – biển của Đà Nẵng là một lợi thế cạnh tranh quan trọng so với nhiều trung tâm du lịch cả trong và ngoài nước.

Để có thể bảo vệ hệ thống di sản văn hoá này, hạn chế những tổn hại của quá trình hiện đại hoá và sự dịch chuyển của đô thị trong giai đoạn sáp nhập hành chính, chính quyền thành phố Đà Nẵng cần xác định rõ: bảo tồn di sản là một phương thức đặc biệt của phát triển bền vững. Vì vậy cần thực hiện những giải pháp căn cơ, khoa học. Bắt đầu từ đưa quy hoạch bảo tồn di sản trở thành một hợp phần của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, từ đó xây dựng các kế hoạch khảo sát, kiểm kê di tích, thực hiện khai quật khảo cổ học, lập bản đồ hệ thống các công trình, di tích và cập nhật thường xuyên về tình trạng cũng như dự báo tác động (của tự nhiên và xã hội). Tiếp tục bảo tồn, trùng tu các di tích, hạn chế tối đa tác động và phá huỷ cảnh quan tự nhiên, bảo vệ nghiêm ngặt những khu vực đã bị tổn thương có có nguy cơ bị tổn thương. Phát triển du lịch văn hoá, du lịch nghỉ dưỡng theo định hướng du lịch bền vững.

Đồng thời với việc toàn xã hội thực hiện nghiêm túc Luật Di sản văn hoá, sự đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, kinh nghiệm quan trọng đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia là có quan điểm nhất quán: Di sản đô thị là thuộc về cộng đồng, phải được coi là nguồn vốn xã hội phục vụ lợi ích cộng đồng, tham góp tích cực vào phát triển bền vững. Di sản lịch sử - văn hóa chỉ có thể được bảo tồn và phát huy giá trị khi cộng đồng có cơ hội tham gia đóng góp vào cơ chế quản lý đô thị, nhất là chính sách và thực thi chính sách bảo tồn di sản văn hóa.

 Nguyễn Thị Hậu



 

 

 

 

CÔN ĐẢO MIỀN XANH BẤT TẬN GIỮA BIỂN KHƠI

 https://nguoidothi.net.vn/con-dao-mien-xanh-bat-tan-giua-bien-khoi-49617.html?fbclid=IwY2xjawMniTxleHRuA2FlbQIxMQABHs8KTDTEScHTeRSE8a5RD2LMbINZfcA0WZM8pX5DCjIXAsjrkudkfYD-xXTq_aem_QHku6NoicT3PfT6tUReVYg

Nguyễn Thị Hậu

Nhiều năm trước tôi từng vài lần đến Côn Đảo vì công việc. Ngày ấy đến với Côn Đảo chỉ có thể bằng tàu sắt lênh đênh trên biển mười mấy tiếng. Vào mùa biển động tàu phải ngừng chạy, hàng tuần không có thực phẩm và những hàng thiết yếu chuyển ra đảo. Khi ấy Côn Đảo là một nơi buồn hiu hắt từ ngày này qua tháng khác, chưa có du khách mà chỉ những người có việc đến đây vài ngày, hay vài tuần, rồi lại vội vã ra đi...

Cảnh quan trên đảo chỉ là những hàng bàng cổ thụ luôn đứng im trầm mặc, những khu nhà tù rộng lớn xám xịt, nghĩa địa Hàng Keo, Hàng Dương lạnh lẽo... Điện bằng máy phát chỉ có vài tiếng trong ngày, khoảng 7 giờ tối cả đảo chìm trong bóng đêm, trừ vài ngày có trăng. Trong không gian tĩnh lặng chỉ thấy những hình khối đen sì bất động. Ngoài tiếng sóng biển rì rầm nếu lắng nghe thật kỹ dường như vẫn có những tiếng thì thầm đâu đó...

Côn Đảo trong lịch sử

Giai đoạn trước công nguyên, từ Côn Đảo vào vùng cửa biển Vũng Tàu - Cần Giờ đã có dấu tích khảo cổ học của các cộng đồng cư dân tiền sử sống ven biển, đó là các khu mộ chum với nhiều đồ tùy táng bằng đồ gốm, đá quý, vàng, sắt... như Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Cần Giờ), Giồng Lớn (Long Sơn – Vũng Tàu) và Cồn Miếu Bà, Cồn Hải Đăng (Côn Đảo)… Hiện vật ở các di tích này có nguồn gốc khác nhau phản ánh mối quan hệ giao lưu văn hóa đa dạng, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống trao đổi thương mại trên đường biển ở khu vực Đông Nam Á và rộng hơn, vào khoảng 2.500 năm cách ngày nay.

 Đầu thế kỷ XIX sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hòai Đức đã ghi chép về cư dân và sản vật Côn Đảo như sau:

“Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà, không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao”.

Như vậy, nếu Cần Giờ từng là “cảng thị sơ khai” thời tiền sử thì Côn Đảo được coi là “tiền cảng” của cảng Bến Nghé – Gia Định thời Nguyễn. Vị thế quân sự quan trọng của Côn Đảo là trạm tiền tiêu, Cần Giờ là cửa ngõ của toàn bộ khu vực Nam Đông Dương. Vì vậy, trong lịch sử giữa Côn Đảo, Cần Giờ và vùng/thành Gia Định đã có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế và quân sự.

Năm 1861 quân đội Pháp chiếm Côn Đảo, ngay sau đó đã biến Côn Đảo thành nơi giam giữ các phạm nhân chống Pháp. Từ 1954 chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiếp tục phát triển hệ thống nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt và nơi lưu đày chủ yếu là tù chính trị. Dưới chế độ nhà tù Côn Đảo, khoảng 20.000 người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương, Hàng Keo và nhiều khu mộ khác.

Cũng từ quá trình biến hòn đảo xinh đẹp bình yên thành một “địa ngục trần gian”, dân cư sống trên đảo bị chính quyền buộc phải đi nơi khác sinh sống, vì sợ tù nhân vượt ngục sẽ được người dân che chở và giúp đỡ vượt biển trở về đất liền. Từ đó trên đảo chỉ còn nhà tù, tù nhân và những người phục vụ trong bộ máy chính quyền. Các làng chài biến mất, cộng đồng cư dân di dạt vào đất liền, nghề biển và nghề thủ công chế biến sản phẩm từ rừng và biển mai một dần... Một giai đoạn “lịch sử văn hóa” của cộng đồng cư dân trên đảo bị đứt gãy, thay vào đó là lịch sử đẫm máu dài hơn 100 năm mà bao nhiêu chứng tích còn hiện diện rõ ràng tại Côn Đảo.

Từ sau 1975, Côn Đảo được biết đến là nơi hội tụ giữa bảo tồn thiên nhiên và chứng tích lịch sử nổi tiếng.

Môi trường xanh – du lịch xanh ở Côn Đảo

Sau nhiều năm, nay trở lại thấy Côn Đảo đã khác xưa. Từ trên máy bay nhìn xuống thấy cả hòn đảo sáng sủa tươi tắn hơn nhiều. Dưới ánh nắng chói chang, cả hòn đảo là một màu xanh thắm, được viền màu xanh biển càng xa bờ càng xanh biếc. Con đường từ sân bay Cỏ Ống về trung tâm đảo trải nhựa bằng phẳng, một bên là rừng nguyên sinh một bên là bờ biển và những hòn đảo nhỏ thuộc đảo lớn Côn Sơn. Hiện nay Côn Đảo đang tích cực triển khai “Chuyển đổi xanh”. Thực ra quá trình này đã được thực hiện từ nhiều năm trước, đầu tiên là việc hạn chế rác thải nhựa trên đảo. Du khách đặt chân đến đảo là được biết ngay những thông tin liên quan đến bảo vệ môi trường ở đây. Tại các khách sạn, cơ sở lưu trú, trong các công sở, đi khắp đảo hầu như không nhìn thấy rác thải là bao ni lon, chai nhựa ly nhựa hay hộp xốp... Tuy nhiên tại các cửa hàng, các chợ vẫn còn sử dụng loại bao bì này.

 So với nhiều đặc khu khác, Côn Đảo đang giữ một lợi thế cạnh tranh quan trọng: môi trường xanh và sạch theo hướng bền vững! Vì vậy chính quyền và người dân Côn Đảo đều nghiêm túc thực hiện việc loại trừ rác thải độc hại, do nhận thức rõ sự cần thiết, thậm chí tính cấp thiết của việc bảo tồn môi trường tự nhiên. “Chuyển đổi xanh” ở đặc khu Côn Đảo bắt đầu từ bảo toàn môi trường tự nhiên, cắt giảm phát thải, chuyển đổi đồng bộ phát triển kinh tế – xã hội – hạ tầng, nhằm tránh cho Côn Đảo nguy cơ tổn thương tự nhiên và văn hóa từ quá trình “hiện đại hóa”.

Từ lợi thế môi trường sinh thái, du lịch trở thành kinh tế ngành quan trọng nhất của Côn Đảo, định hướng phát triển du lịch sinh thái – lịch sử – tâm linh, với quy mô vừa phải để giữ gìn môi trường và bản sắc địa phương.

Chủ đề thu hút du khách nhất là du lịch lịch sử – tâm linh. Tuyến điểm chính là viếng thăm hệ thống di tích Nhà tù Côn Đảo, cầu tàu 914, nghĩa trang Hàng Dương (nơi an nghỉ của liệt sĩ Võ Thị Sáu và nhiều nhà cách mạng), nghĩa trang Hàng Keo – nơi nhiều tù nhân đã chết trong quá trình lao động khổ sai... Hiện nay các di tích nhà tù thời Pháp, thời Mỹ đều được trùng tu, tôn tạo tốt, giữ được nguyên trạng các trại giam và cảnh quan. Hai nghĩa trang lớn xây dựng khang trang, sạch sẽ, được chăm chút chu đáo, là nơi tổ chức nhiều hoạt động chính trị như lễ tưởng niệm, dâng hương, “đền ơn đáp nghĩa”... thu hút đông khách trong và ngoài nước, đặc biệt vào các ngày lễ lớn.

Hoạt động du lịch sinh thái – khám phá luôn được kết hợp cùng du lịch tâm linh. Bao gồm các điểm đến trên đảo như Vườn quốc gia Côn Đảo, trekking rừng, leo núi, quan sát chim, động vật hoang dã. Các tour khai thác biển như lặn ngắm san hô, xem bò biển, câu cá biển... Đặc biệt tour xem rùa biển đẻ trứng (Hòn Bảy Cạnh, Hòn Cau), và sau đó là tour của các tình nguyên viên mang thả rùa con về với biển. Qua những hoạt động du lịch gắn với thiên nhiên, nhiều du khách cho biết nhận thức bản thân về giá trị của tài nguyên rừng, biển được nâng cao, ý thực bảo vệ môi trường được chuyển biến thành hành động thiết thực.

Đồng thời với những chương trình du lịch cho số đông, các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng cao cấp đã hiện diện gồm các resort, khách sạn 4–5 sao như Six Senses Côn Đảo, Poulo Condor Boutique, The Secret Côn Đảo, Sài Gòn tourist Côn Đảo... và sớm trở thành thương hiệu được nhiều khách hàng cao cấp biết đến tại Côn Đảo. Không chỉ là không gian yên tĩnh, trong lành, cảnh quan biển – núi vô cùng quyến rũ, mà các khách sạn này còn nhiều dịch vụ kết hợp chăm sóc sức khỏe, yoga, thiền, ẩm thực hữu cơ... Mang đến một kỳ nghỉ dưỡng trọn vẹn, bổ ích cho du khách cả về thân thể và tinh thần.

Du lịch cộng đồng đang trở thành một hướng phát triển quan trọng ở Côn Đảo. Tuy dân số hiện nay tại Côn Đảo chỉ hơn 11 ngàn người, nhưng đó là nhân tố đầu tiên để xây dựng du lịch cộng đồng. Các hình thức như lưu trú homestay, cùng trải nghiệm đời sống ngư dân, tham gia một số nghề thủ công như chế biến hải sản, làm mứt, bánh, kẹo từ hạt bàng, tham quan cơ sở nuôi trai lấy ngọc làm đồ trang sức... Những “đặc sản” OCOP địa phương đang dần lấy lại “thương hiệu” sau hơn trăm năm biến mất.

Đi tìm chìa khóa mở cửa “thiên đường” Côn Đảo

Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và quá trình lịch sử đã tích tụ ở đây những di sản quý giá đồng thời cũng dễ bị tổn thương và rất khó khôi phục hay bù đắp. Nhất là hiện nay Côn Đảo trở thành đặc khu thuộc TP. Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế lớn, nơi mà di sản văn hoá và môi trường thiên nhiên luôn có nguy cơ chịu tác động mạnh mẽ do sự phát triển “nóng” về kinh tế và quá trình đô thị hoá.

Từ góc nhìn mối quan hệ gắn bó giữa Hệ sinh thái tự nhiên đặc hữu biển – đảo – rừng – núi của Côn Đảo, với quá trình lịch sử - xã hội đặc thù, và vị thế gắn bó với thành Gia Định xưa - TP. Hồ Chí Minh nay, có thể nhận biết ba đặc trưng lịch sử - văn hóa của Côn Đảo cần được bảo tồn và phát huy đúng hướng, phải được kiểm soát chặt chẽ về tốc độ và mức độ. Đó là:

Một, tài sản lớn nhất của Côn Đảo chính là thiên nhiên nguyên sơ, vừa mang tính đa dạng sinh học cao, vừa có nhiều loài và quần xã mang tính đặc hữu, nhờ vị trí địa lý tách biệt, khí hậu nhiệt đới hải dương và lịch sử tiến hóa lâu dài. Côn Đảo không có đất sản xuất nông nghiệp, không có nguồn khoáng sản lớn, tuy không là đầu mối giao thông chiến lược nhưng quan trọng về quân sự. Bù lại, Côn Đảo có một quần thể tự nhiên rừng – biển hiếm có ở Việt Nam, đây là “vốn tự nhiên” quý giá nhất và gần như không thể tái tạo nếu bị mất đi. Vì vậy, tài nguyên tự nhiên là nền tảng của sinh kế cộng đồng và phát triển kinh tế - xã hội của Côn Đảo.

Hai, Côn đảo là vùng văn hoá – lịch sử tâm linh. Thiết chế xã hội đặc thù là hệ thống nhà tù hàng trăm năm tại đây làm cho không gian Côn Đảo chứa đựng yếu tố tâm linh. Trên thực tế tại Côn Đảo đã có hơn hai mươi ngàn người hy sinh, trong đó phần lớn chưa được tìm thấy di cốt, phần khác chưa xác định được danh tính... Đấy còn là “món nợ” của thế hệ sau đối với tiền nhân, cần phải ứng xử tử tế với di sản thiêng liêng này.

Tính thiêng còn đến từ văn hóa dân gian Côn Đảo qua việc thờ cúng Bà Phi Yến và Liệt sĩ Võ Thị Sáu. Bà Phi Yến và Cậu Hoàng Cải là nhân vật truyền thuyết được tích hợp với tín ngưỡng “thờ Bà thờ Cậu” phổ biến của ngư dân Nam bộ, lễ giỗ bà tổ chức hàng năm tại An Sơn Miếu nay là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Liệt sĩ Võ Thị Sáu hy sinh khi còn rất trẻ, được an táng tại Nghĩa trang Hàng Dương cùng hàng ngàn người Việt Nam yêu nước. Ngôi mộ của liệt sĩ và nghĩa trang này cũng trở thành nơi “hành hương” tâm linh, tín ngưỡng mới của du khách trong nước.

Ba, Không gian xã hội – cộng đồng bình yên, chất phác. Do điều kiện lịch sử - xã hội nên dân cư Côn Đảo không nhiều và không phát triển kinh tế biển. Thành phần dân cư khá thuần nhất, hiện nay ngoài cán bộ, công chức thì người dân sống bằng buôn bán nhỏ, dịch vụ - du lịch, chế biến thực phẩm... Lối sống thuần phác, tuân thủ luật pháp tốt, ứng xử với du khách khá giản dị, hiền hòa. Đây cũng là một lợi thế trong du lịch, giống như trường hợp phố cổ Hội An nhiều năm trước.

Đây là ba chiếc “chìa khóa vàng” sẽ mở ra những cơ hội để biến Côn Đảo trở thành một “thiên đường du lịch” của Việt Nam và khu vực. Muốn có tương lai bền vững, từ hôm nay phải giữ được thiên nhiên và văn hóa, việc định vị lại hình ảnh Côn Đảo như một khu vực du lịch nghỉ dưỡng, học tập và bảo tồn sinh thái có kiểm soát sẽ giúp Côn Đảo phát triển kinh tế bền vững. Hiện nay, đặc khu Côn Đảo trực thuộc TP. Hồ Chí Minh (mới) là sự tiếp nối một truyền thống lịch sử, đồng thời cũng mang lại cho Côn Đảo một vị thế quan trọng mới.

Côn Đảo, 10.8.2025







NGÀY MAI ĐANG BẮT ĐẦU TỪ NGÀY HÔM NAY


Đất nước bước vào mùa thu đặc biệt, mùa thu của 80 năm Dân chủ cộng hòa. Trong gia đình tôi ngày 2/9/1945 được gọi là Ngày Độc Lập. Vì đó là ngày cha mẹ chú bác tôi lên đường đi theo “tiếng gọi sơn hà” giành nền độc lập cho tổ quốc.
Nhiều người Việt Nam thời đó học hành rất giỏi, dành được học bổng của chính quyền Pháp, khi trở thành bác sĩ, thầy giáo, kỹ sư, luật sư, công chức cũng được ưu đãi vật chất… Nhưng cũng nhờ có học nên những người trí thức hiểu rằng không ai có quyền áp bức bóc lột ai, họ tiếp nhận văn minh phương Tây để hiểu về Tự do, Bình đẳng, Bác ái giữa các quốc gia. Và họ, bằng nhiều hình thức việc làm khác nhau, đã tham gia vào cuộc đấu tranh chống chính quyền thuộc địa vì mục tiêu Độc lập Dân tộc. Đó là ước nguyện và niềm tin của người Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến.
Sau khi hòa bình – thống nhất vào tháng 4/1975, hơn mười năm sau cả nước vật vã trong “cơn bệnh ác tính” thời bao cấp. Đến nay, nếu tính từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới vào năm 1986 thì cũng gần 40 năm trôi qua.
Khi công cuộc Đổi mới được khởi xướng, tôi là một giảng viên trẻ. Cuộc sống quá thiếu thốn vất vả nên chúng tôi cũng lam lũ việc chân tay như mọi người. Ai cũng phải làm thêm việc phụ - nhưng lại là việc chính để mang lại chén cơm tấm áo cho con cái. Thôi thì không thiếu “ngành nghề” gì: nuôi heo trong nhà tắm, nuôi cá trê phi dưới gầm giường, dán bao thơ, túi giấy cho bưu điện, đóng sách bằng tay cho nhà in, bán báo, chở hàng thuê, bỏ mối hàng... khá hơn thì có máy may để may đồ gia công, hay tham gia các “tổ hợp” làm hàng tiêu dùng kiểu “Hồng kông bên hông Chợ Lớn”... Vài ngày lại xếp hàng mua từ cây kim sợi chỉ đến cân gạo, bó củi, mớ rau…
Lúc đó tôi chưa hiểu hết khái niệm “Đổi mới” là thế nào, thể chế cơ chế là gì? Nhưng là một người phụ nữ, tôi nhận ra sự “đổi khác” bắt đầu từ chén cơm của con có thêm miếng thịt miếng cá, ngoài chợ hàng hóa nhiều hơn và dễ mua hơn, không còn phụ thuộc vào thái độ vui buồn của “cô mậu dịch”. Đổi khác từ mảnh ruộng miếng vườn của ông bà ở nhà quê được tự do trồng trọt và tiêu thụ nông sản... Người dân lúc ấy, có lẽ không cần biết đến những khái niệm to tát, nhưng luôn nhìn nhận rất rõ từng đổi thay hàng ngày: có hàng hóa ngoài chợ, có cơ hội làm ăn, cuộc sống “dễ thở” hơn, và nghĩ rằng cứ như vậy thì đời con mình sẽ khá hơn hôm nay. Bao nhiêu sự “đổi khác” nho nhỏ hàng ngày, thiết thực với từng người dân tạo thành sự “Đổi mới” của đất nước, mà sau này hay được nhắc đến bằng cụm từ “chấm dứt bao cấp và mở cửa”. Có lẽ đó là hạnh phúc giản dị cụ thể mà mỗi người dân đều mong đợi một “cơ chế thể chế” mang lại.
***
Có thể nói, “đổi mới” mang lại sự thay đổi đời sống vật chất vô cùng nhanh chóng! Bốn mươi năm ấy thế hệ chúng tôi được trải nghiệm vô vàn những hiện tượng riêng, rất “Việt Nam”. Ra khỏi chiến tranh, từ một đất nước thiếu ăn trở thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo, từ đất nước mà hàng tiêu dùng thiếu thốn trầm trọng nay đã có mặt trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ tài sản quý nhất của mỗi gia đình là chiếc xe đạp, nay nhiều người có xe hơi, điện thoại thông minh phổ biến và can dự thường xuyên vào cuộc sống mỗi người... Công nghệ của đất nước đang được ứng dụng thành tựu trí tuệ nhân tạo trên thế giới.
Bốn mươi năm trôi qua, kinh tế - xã hội nước ta từ nền “kinh tế bao cấp” đã “đổi khác”, tính chất thị trường ngày càng rõ hơn. Nhưng cũng không thể không nhận thấy, những cái Khác cái Mới thực sự vẫn còn ngập ngừng chưa tới? Đã qua một phần tư thế kỷ 21, cuộc sống bây giờ như con tàu cao tốc hiện đại nhưng vẫn chạy trên tuyến đường ray cũ kỹ, qua những vùng quê nghèo nàn dù hành trình có dừng ở vài nhà ga mới. Những người điều khiển chưa nắm vững thiết bị hiện đại của con tàunên còn xảy ra trục trặc. Hành khách có vẻ vừa thích lại vừa ngại “cái mới”, nhiều người chưa thoát khỏi tâm lý ngàn đời luôn đề phòng bất trắc, trong sự phấn khởi vẫn hiện diện nỗi lo sợ, hoài nghi...
Trong tình trạng đó “đoàn tàu hiện đại” chưa thể chạy hết công suất, vì còn lực cản, vì chưa an toàn, vì chưa đủ tự tin, chưa có sự đồng thuận... Tất nhiên, như vậy không thể không mang lại sự đổi mới thực sự như mong muốn.
Trong tiến trình lịch sử, những công cuộc đổi mới không chỉ là lựa chọn mà là bước phát triển tất yếu của nhiều quốc gia. Sự đổi mới có thể bằng nhiều phương thức (mà chiến tranh là tàn khốc nhất, có thể mang lại sự đổi thay nhưng hậu quả vô cùng lâu dài và nặng nề). Quá trình tiếp nối những đổi thay trên thế giới thể hiện quy luật xã hội. Thế kỷ 21 được vận hành trên cơ sở những thành tựu của công nghệ và dữ liệu Lớn (tính khách quan), tuân thủ pháp quyền và hiệu quả (tính chủ quan). Đó là một quy luật mà mỗi thể chế cũng như mỗi con người ở “thời đại số” – dù tuổi lão như thế hệ tôi – cần nhận biết.
Thực hiện đúng quy luật sẽ mang lại hiệu quả cho bộ máy và sự vận hành của chính quyền, mang lại những lợi ích cho người dân thụ hưởng. Việc tinh giản và phân cấp chính quyền địa phương thể hiện cơ chế hành chính hướng tới mối quan hệ thực chất giữa chính quyền và người dân, hướng đến mục tiêu quản trị nhà nước dần chuyển từ xin – cho sang phục vụ, từ mệnh lệnh hành chính sang đối thoại và tích hợp dữ liệu. Đồng thời, xây dựng hệ thống pháp luật và chính sách phù hợp thực tiễn, minh bạch và được giám sát bởi người dân.
Sự đổi mới không hề dễ dàng. Nếu năm 1986 đổi mới không thể chậm trễ vì tình trạng trì trệ đã dẫn đến những hậu quả nặng nề đối với từng người dân, kéo cả nước “đi lùi hàng thập kỷ”, thì công cuộc đổi mới hiện nay càng không thể chần chừ, khi mà thế giới đã bước vào “kỷ nguyên số” với tốc độ được tính từng phần ngàn giây, đồng thời cũng đặt ra thách thức đối với thế giới hiện đại là sự minh bạch, công khai, nhân văn và công bằng. Việt Nam nếu mãi câu nệ, níu kéo “sự đặc thù” của thế kỷ trước, thì đó là cách nhanh nhất kéo quốc gia mình ra khỏi sự phát triển chung của nhân loại.
***
Thế hệ chúng tôi tự nhận là thế hệ “bản lề”, vì sinh ra trong thời chiến và lớn lên trong thời bình, vất vả từ thời bao cấp sang những khó khăn thời mở cửa đổi mới... Đó là những ký ức không phai, nhưng chắc chắn không ai muốn trở về thời gian đó. Có thể nói chúng tôi chứng kiến, tham gia và góp phần tác động vào công cuộc xoá bỏ thời bao cấp. Cũng như cả nước, mỗi người đã “tự cứu mình trước khi trời cứu” như lời một vị lãnh đạo khi ấy đã nói. Cấp trên chuyển động, cấp dưới chuyển động, từng người chuyển động, cả guồng máy chuyển động. Lúc đầu còn chưa đồng bộ nhưng rồi dần dần như chiếc xe chở nặng, khi có đà rồi bánh xe cứ thế quay đều quay đều và nhanh dần…
Xã hội qua khỏi thời bao cấp giống như chuyển từ xe đạp sang xe máy. Tốc độ nhanh hơn, hiệu quả cao hơn, đi xa hơn. Đó cũng là những mục tiêu mọi cuộc đổi mới hướng đến. Muốn vậy việc lựa chọn phương tiện phù hợp và những điều kiện đi cùng là rất quan trọng. Thời đại hiện nay sự phát triển nếu so với phương tiện giao thông thì ít nhất, cần phải như tàu cao tốc. Tuy nhiên, muốn có metro trong một thành phố hay tàu cao tốc liên vùng thì không chỉ cần đoàn tàu mới. Quan trọng nhất là hệ thống đường ray hợp lý, hiện đại, an toàn, toàn bộ hệ thống phải đồng bộ khi “đấu nối” với nhau. Sự phát triển quốc gia với những kế hoạch, quy hoạch ngắn hay dài hạn, quy mô khu vực hay toàn quốc… có thể được coi như một mạng lưới đường sắt cao tốc như vậy! Hợp lý và khoa học hệ thống nào cũng vận hành trơn tru và mang lại hiệu quả cao.
Với công cuộc đổi mới hiện nay – người dân có thể không mấy quan tâm đến những khẩu hiệu “đao to búa lớn” mà hay nhìn từ những việc cụ thể, đơn giản, thiết thực cho mỗi người. Bởi vì mỗi người là một bộ phận – dù nhỏ xíu như chiếc đinh ốc - của cỗ máy xã hội. Sự vận hành cỗ máy nào cũng phải bắt đầu từ sự chuyển động của từng bộ phận. Không thể kỳ vọng ngay lập tức sẽ giải quyết hết mọi khó khăn cho người dân, bất bình đẳng với các thành phần xã hội, nhất là trong kinh tế. Nhưng tôi có quyền kỳ vọng những “điều mới, điều khác” chính quyền đang và sẽ làm. Đó là thực sự tôn trọng và phục vụ nhân dân, không tạo thêm bất công xã hội, không tạo điều kiện cho tham nhũng lãng phí hoành hành, không đẻ ra “cơ hội” cho những kẻ cơ hội chuyên “làm nghèo đất nước”.
Tám mươi năm qua, những thế hệ người Việt Nam đã dũng cảm hy sinh tính mạng chiến đấu chống ngoại xâm, biết bao con người đã hết mình lao động xây dựng tổ quốc, vì họ hiểu một cách sâu sắc rằng, giá trị của nền độc lập quốc gia chỉ trọn vẹn khi nhân dân được Tự do và Hạnh phúc – những giá trị phổ quát của nhân loại. Bốn mươi năm từ cuộc đổi mới xoá bỏ bao cấp, nếu cuộc cải cách hiện nay được thực hiện với lòng dũng cảm vàkiên nhẫn, hướng đến nhân dân bằng sự chân thành và khoan hòa, sẽ không chỉ mang lại “diện mạo mới, sinh khí mới” cho bộ máy chính quyền, mà còn khơi dậy niềm tin và sự hy vọng của nhân dân vào một xã hội mới: nơi mà điều tử tế trở thành bình thường, mọi người được tôn trọng và đối xử công bằng, cuộc sống vật chất đủ đầy và đời sống tinh thần nhân văn, tự do.
Nguyễn Thị Hậu
Đặc san báo Tuổi trẻ số 2/9/25



ĐẠI KHÁI NÓI CHUNG LÀ TƯƠNG ĐỐI

Không khó để đọc hoặc nghe thấy lời đánh giá, nhận xét bằng những từ này. Nó phổ biến đến mức ghép các từ lại cũng thành một câu như “trạng từ” chỉ tình trạng hay tính chất của sự việc, hành động, thậm chí là tính cách của một con người. Thử tìm hiểu thì biết một số nghĩa như:

ĐẠI KHÁI: chỉ trên những nét lớn, nét khái quát, không đi sâu vào chi tiết, cụ thể.
biết đại khái, đại khái câu chuyện chỉ có thế.
Là lối làm việc chỉ chú ý những cái chung chung, thiếu đi sâu vào những cái cụ thể
làm đại khái thôi!
Đồng nghĩa: đại loại, đại thể, phiên phiến
Khẩu ngữ: qua loa đại khái
NÓI CHUNG: nói một cách bao quát, không tính đến cái có tính chất cá biệt, bộ phận: tình hình nói chung là tốt; công việc nói chung có tiến triển…
Đồng nghĩa: nhìn chung
TƯƠNG ĐỐI: ở một mức nào đó, trong quan hệ so sánh với những cái khác cùng loại: kết quả tương đối tốt, kinh tế tương đối phát triển…có nghĩa ở mức đại khái trên trung bình, có thể tạm hài lòng: hình thức trông cũng tương đối…
Đại khái, nói chung, tương đối không mang tính định lượng mà là định tính bởi không cụ thể, cảm quan, lưng chừng, không khẳng định… kiểu nhận xét NÓI CHUNG như vậy không làm mất lòng ai, dễ làm vừa lòng người nghe dù có thể hiểu là không khen, đồng thời khi đánh giá TƯƠNG ĐỐI thì nhận xét đó có thể là ĐẠI KHÁI, như vậy người ta có thể dễ lẩn tránh trách nhiệm của mình.
Vì sao người ta thường bằng lòng với kiểu đánh giá này, cả từ hai phía?
Cứ theo sự giải nghĩa những từ ngữ này thì cần nhìn từ hai phía.
Hoặc bản thân sự việc hiện tượng đã thể hiện sự qua loa, không cụ thể, không đạt một chuẩn mực nào cả, không có kết quả như lẽ ra nó phải đạt.
Hoặc là thể hiện thái độ của người nhận xét một cách qua loa đại khái vì không hiểu biết cụ thể, sự hai mặt của nhận xét khi không khẳng định khen, chê, phê phán hay khuyến khích, muốn hiểu thế nào cũng được.
Nhưng cả hai bên đều bằng lòng với sự mù mờ không rõ ràng, thậm chí là giả dối.
Tất nhiên, bản thân những từ này không mang nghĩa tiêu cực hay tích cực, vì vẫn có những hiện tượng sự việc có tính chất mức độ như vậy. Nhưng khi nó phổ biến và được coi là “cần thiết” của sự đánh giá thì nhận xét không còn khách quan. Có thể thấy nguyên nhân xuất phát từ sự vô trách nhiệm. Nhân cách con người xã hội luôn gắn liền với trách nhiệm đối với chính mình và với cộng đồng. Người ta thường lo mất uy tín nhưng không coi trọng tinh thần trách nhiệm.
Có thể nhìn thấy vô số những ví dụ từ đời thường đến “chính sự” được đánh giá, nhận xét như vậy, cả bằng lời nói và văn bản, cho thấy tính đại khái, sự nửa vời và giả dối đã trở thành phổ biến trong xã hội. Bởi vì sự nửa vời dễ làm người ta hài lòng với những cái gì mình có, tự biện minh cho những yếu kém và ngại thay đổi, do đó người ta dễ dàng thỏa hiệp để có sự “ổn định”. Nhưng cứ mãi “ổn định” thì sẽ là trì trệ, lạc hậu.
Cũng như vận hành máy móc. Khi nhìn thấy những dấu hiệu trục trặc đầu tiên, hư hỏng nhẹ, đáng lẽ phải tìm ngay cách thức khắc phục thì nhiều người tự nhủ, máy vẫn chạy được, không sao, rồi đâu vào đấy. Đến khi dấu hiệu mang tính nguy cơ cũng chưa vội tìm hiểu hỏng cái gì và khắc phục như thế nào, mà lại đi tìm “đứa nào làm hỏng” vì cho rằng nhất định phải có một ai đó phá hoại thì máy mới hỏng; không nghĩ rằng, sự vận hành sai và không bảo trì máy thường xuyên chính là nguyên nhân đầu tiên. Tức là luôn đi tìm nguyên nhân khách quan mà ít khi tìm nguyên nhân từ phía chủ quan. Nếu có cũng là những nguyên nhân không thể quy trách nhiệm cụ thể cho ai!
Tiếc rằng, khi chưa tìm được cái đứa làm hỏng thì máy đã ngừng chạy hoặc cho ra đời những phế phẩm! Lúc đó thì đã muộn, nếu chữa được thì máy giảm tuổi thọ, chất lượng sản phẩm giảm, nhưng hầu hết máy phải “đắp chiếu”. “Cái xảy nảy cái ung” từ thói qua loa đại khái sau đó đổ thừa không dám chịu trách nhiệm.
Nhưng có vẻ như tính cách này đang phổ biến trong mọi mặt đời sống xã hội. Dần dần nó trở thành căn bệnh trầm kha và tạo thành nhân cách con người. Thói tùy tiện vô trách nhiệm có thể không làm chết người ngay lập tức nhưng nó tạo ra các phế phẩm gây hại cho con người và lãng phí cho xã hội. Khi sản phẩm là chính con người thì xã hội không có chuẩn mực, luật pháp tùy tiện, cản trở sự phát triển.

Làm gì cũng "đại khái nói chung là tương đối" thì sinh ra những con người cũng chỉ có trình độ hiểu biết và kỹ năng ở tầm tương đối đại khái chung chung, từ đó chắc chắn sẽ làm ra những sản phẩm kém chất lượng thậm chỉ sản phẩm giả! Chấp nhận điều đó dần dần tất cả những giả tạo và kém chất lượng - cả người và sản phẩm - sẽ trở thành bình thường, thang giá trị đảo lộn, không còn chuẩn mực xã hội!
“Đại khái nói chung là tương đối” không chỉ là một cách nói mà là một cách làm, nó thể hiện tính cách lười biếng, tùy tiện và không có ý thức công dân. Mỗi người chỉ cần làm đúng công việc và làm hết trách nhiệm của mình, khi đó xã hội sẽ như guồng máy được vận hành đúng quy trình, giảm thiểu hư hỏng và giữ được độ bền máy móc.
Hãy dạy con trẻ làm “đến nơi đến chốn” vì đó là kỹ năng, tính cách và đạo đức cần thiết đầu tiên của một con người. “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” ngay từ điều này chứ không phải từ lý tưởng xa vời.

Nguyễn Thị Hậu
TBKTSG 11/8/2016


VẪN CÒN NHỚ NHAU (chuyện trẻ sơ tán, tiếp) - 10. NGÕ MAI HƯƠNG

 

10. NGÕ MAI HƯƠNG

Khi về Hà Nội tôi vào học lớp 4. Lúc này nhà tôi chuyển từ tập thể Đoàn Cải lương Nam bộ ở ngõ 23 Ngô Thời Nhiệm gần chợ Hôm – nơi gia đình tôi sống từ khi ba má tập kết ra Bác - xuống ở tập thể của Nhà hát Cải lương trong ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai, gọi là Khu tập thể Quỳnh Lôi. Ngõ Mai Hương lúc ấy là một khu mới xây dựng, toàn những dãy nhà cấp 4 mái phibro xi măng, một bên là ao rau muống rộng. Chỉ có hai dãy nhà cao tầng là trường Đoàn Kết và trường Phổ thông công nghiệp Hai Bà Trưng (khác trường Hai Bà Trưng trên khu Hoàn Kiếm). Khu tập thể tôi ở có cái sân cỏ mọc rậm rạp, ba dãy nhà hình chữ U quanh sân, một dãy là phòng tập của Đoàn cải lương. Giữa sân là nhà để mấy chiếc xe tải và một cái hầm trú ẩn rất lởn, bọn trẻ thường chơi trốn tìm ở đó.

Tôi ở khu B cùng với nhiều gia đình khác, trong đó có cô chú nhạc sĩ Phan Nhân – Phi Điểu – hai người em đồng hương thân thiết của ba má tôi. Hồng Quân, con của cô chú, học cùng với tôi. Hồng Quân hồi nhỏ nghịch thôi rồi, lúc nào cũng thấy bạn bị bó bột hết chân rồi tay, không ngày nào không bị ba má la rầy. Cùng học còn có bạn Tiến nhà ở cạnh nhà tôi, bạn Dũng “còi” nhưng thông minh nhất lớp, nhà bạn gần đấy có lò bánh mì, mỗi khi tôi qua đổi bánh bạn thường ưu tiên cho chiếc bánh vỏ dày giòn thơm. Thân nhất với tôi là Mỹ Linh, một bạn người nhỏ nhắn, đôi mắt rợp hàng mi dài rất đẹp, nhà ở dãy trong cùng của khu B. Tôi hay qua nhà chơi với hai chị em Linh, ba mẹ Linh cũng rất quý tôi, còn Linh hay ra nhà tôi học cùng. Có lần vào một tối mùa đông, rất lạnh mà vẫn có muỗi, hai đứa ngồi ở bàn trùm chăn kín chân nhưng muỗi vẫn vo ve bên tai. Bực quá tôi vừa đập chan chát vừa càu nhàu “cái con muỗi này...”, thế là Linh cười mãi, bảo tôi mắng muỗi mà như mắng người ấy.

Chúng tôi học trường Ngô Quyền trong Ngõ Quỳnh thông ra phố Bạch Mai ở gần khu chợ giời. Cô chủ nhiệm lớp 4 là cô Hoàn, sau lên lớp 5 là cô Phương. Nhà cô Hoàn nhà trên phố Bạch Mai, cô hiền lắm. Chúng tôi thường đi bộ lên nhà cô chơi, được cô dẫn đi ăn kem. Cô Phương thì nhà ngay khu C, gần cửa hàng thực phẩm bán thịt. Cửa hàng này hay có mấy cái thông báo viết nguệch ngoạc bằng phấn trên cái bảng đen nhỏ tróc sơn, kiểu như “hôm nay bán thịt trẻ em” (phiếu thịt ký hiệu TR), hay “hôm nay có chân giò, sườn thương binh” (ưu tiên bán cho người có thẻ thương binh). Má tôi hay nhờ chú Phan Nhân (chú là thương binh nhẹ) mua giùm về nấu món gì đó ngon ngon cả hai nhà ăn chung.

Cô Phương lúc đó mới sinh em bé, chồng cô công tác xa nhà. Chúng tôi hay qua nhà cô giúp cô vào sổ điểm, hay mang giùm cô chồng vở nặng đến lớp. Lớp trưởng là bạn Bình Tĩnh học rất giỏi, ít nói nhưng rất chu đáo, hay giúp cô Phương những việc nặng. Hồi đó đi học chúng tôi phải vác bàn ghế của mình, vì lớp học chưa có gì ngoài cái bảng đen. Má tôi nhờ đóng cho tôi bộ bàn ghế xếp gọn rất đẹp, có sợi dây đeo vào vai. Thế là ngày nào đi học chúng tôi cũng như đi hành quân, lưng đeo bàn ghế tay cầm túi, cặp sách. May mà hồi sơ tán đi học luôn đeo mũ rơm to nặng nên cũng đã quen.

Sang đến lớp 6 chúng tôi chuyển ra trường Hà Huy Tập ở đầu ngõ, gần bệnh viện Mai Hương. Chúng tôi có nhiều bạn hơn. Mỗi ngày tôi vẫn “trốn” đi học sớm để chơi nhảy ngựa, nhảy dây chun... đến giờ vào học là đầu tóc quần áo trông như lũ...”nặc nô” - chúng tôi vẫn bị các cô giáo mắng yêu như thế khi đi qua đám con gái đang hò hét nhảy lên đầu nhau.

Ở khu tập thể vào cuốn tuần các nhà hay “ăn tươi”. Chả có gì to tát mà thường là bữa bún chả. Từ sáng sớm bọn con gái rủ nhau đứa đi xếp hàng mua thịt, đứa ra chợ mua rau muống về chẻ, đứa đi bộ lên Trại Găng xếp hàng đổi bún. Gần trưa mùi khói bay thơm phức, nhưng nhà nào cũng có rổ rau và đĩa bún là to, bát nước mắm lớn đầy cà rốt với đu đủ xanh, còn chả nướng thì chỉ vừa một đĩa con.

Hồi ấy cứ mỗi ngày Trung thu thế nào tôi cũng nhận được một món quà nhỏ từ nhà thơ Thanh Tịnh – một người bạn rất thân thiết của gia đình tôi. Còn nhớ, bác Thanh Tịnh đi cái xe đạp “cởi truồng”, không phanh không chắn xích không chắn bánh xe… Bác bảo: xe của bác cái cần kêu thì không kêu (ấy là cái chuông), còn cái không cần thì cứ kêu, mà kêu to (ấy là toàn bộ cái xe, nhất là xích xe, cứ lọc xọc lọc xọc miết…). Đêm trung thu thế nào bác cũng mang đến cho tôi một cái bánh dẻo nguyên vẹn, chỉ là nhân hạt sen (cứng quèo), lớp bột bánh cũng khô và cứng… nhưng sao mà ngon thế không biết! Ngon nhất, là vì được ăn cả chiếc bánh ấy, vì bác dành riêng cho mình tôi. Còn một, hai cái bánh mua bằng phiếu, hay cơ quan “phân phối” thì má tôi thường để dành gửi biếu các bác chủ nhà hồi đi sơ tán, vì “ở Hà Nội mình còn có khi được ăn, chứ ở nông thôn chẳng có đâu con ạ”.

Một năm vào mùa trung thu, đi tàu điện từ chợ Hôm lên Cầu Giấy đến trường Yên Hòa, đi qua phố Hàng Bài, phố Hàng Bông, thấy bán đèn ông sao, lồng đèn con gà con thỏ… tôi cứ mải mê ngắm và ước gì mình có được chiếc đèn ấy. Thèm được cầm cái cán dài dài có dán giấy vòng quanh, được đốt ngọn nến nhỏ xíu trong đèn, được đung đưa nó theo mỗi bước chân. Nỗi thèm muốn mạnh đến ứa nước mắt. Sau này mới hiểu lúc đấy chảy nước mắt vì tủi thân, sự tủi thân không do ai không vì cái gì, chỉ vì không hiểu sao chưa bao giờ (và không bao giờ vì cho đến nay đã già rồi) mình được có một đồ chơi trung thu như thế!

Bây giờ vào mỗi mùa trung thu, nhiều nơi vẫn còn có những trẻ em ước mong có một cái bánh nhỏ, một món đồ chơi giản đơn như thế. Chúng tôi vẫn rủ nhau mỗi người một chút, giúp cho các em nhỏ hoàn cảnh khó khăn có được niềm vui nho nhỏ trong ngày Tết của trẻ em. 

Sài Gòn 11.8.2025

Hình: trẻ con khu tập thể ngày ấy... 




TỪ MÙA THU CÁCH MẠNG

  https://congan.com.vn/tin-chinh/tu-mua-thu-cach-mang_182033.html Nguyễn Thị Hậu Mỗi năm gần đến ngày Quốc khánh 2/9 – là ngày Độc Lập th...