Internet mang lại cho con người những trải nghiệm thú vị về một thế giới mênh mông mà cũng vô cùng nhỏ bé, khi mà chỉ một cú nhấp chuột là có thể “đến” bất cứ nơi nào mình muốn. Dù ở nơi đâu trên trái đất người ta cũng dễ dàng quen biết nhau, có thể cả đời chẳng gặp mặt mà vẫn trở thành bạn bè. Tôi đã quen nhiều người bạn như thế. Dù thường xuyên gặp gỡ đổi trao thân thiết trên mạng, nhưng khi có cơ hội thì chúng tôi vẫn cố gắng tìm gặp nhau. Và thật may mắn, những cuộc gặp gỡ ấy chưa bao giờ làm chúng tôi thất vọng.
Nhiều năm qua tôi có dịp đi công tác nước
ngoài. Trước khi đi tôi liên lạc với bạn ở nơi tôi sẽ đến và luôn nhận được lời
“rủ rê” của bạn, rằng sẽ đưa tôi đi chơi bảo tàng, di tích ở nơi này
nơi khác. Nhưng rồi do thời gian chặt chẽ của
công việc nên nhiều khi chỉ gặp bạn trong một cuộc cà phê vội vã, may mắn thu xếp
được thì có bạn đến đón và đưa tôi đi quanh thành phố trong thời gian rảnh rỗi
ít ỏi của cả hai.
Một lần ở Berlin tôi được gặp chị H. Tôi quen chị qua facebook, nhưng hóa ra chúng
tôi biết nhau từ thời còn ở Hà Nội khi tôi còn bé xíu. Ngay buổi chiều
đầu tiên khi tôi mới tới, chị đưa tôi đến một nơi khá đặc biệt: Khu tưởng niệm
Hồng quân Liên xô trong thế chiến II, “nơi này rất ít
khách Việt Nam đến tham quan, nhưng là một
trong vài nơi đẹp nhất Berlin”, chị H. nói. Quả là như vậy! Hơn thế nữa, khu tượng
đài mang lại cho tôi nhiều cảm xúc, đã gợi nhớ một thời
chiến tranh ở miền Bắc mà tôi không quên, dù bao nhiêu năm đã trôi
qua.
Sống ở
Berlin hơn 30 năm
mà chị H. vẫn giữ giọng nói nhẹ nhàng, phong cách Hà Nội thuần khiết,
chu đáo, nhiệt tình. Những ngày sau đó dù công vịêc rất bận rộn mà chị vẫn
tranh thủ sau giờ làm việc đưa tôi đi tham quan thành phố. Anh chị
định cư ở đây nhưng thường
xuyên lên mạng xem tin tức, rồi trao đổi với các con để chúng gần gũi hơn với quê hương. Hai con của anh chị học rất giỏi,
nói tiếng Việt khá tốt dù được
sinh ra và lớn lên ở nước Đức.
Có hôm hai chị em về đến nhà đã thấy cháu trai nấu xong bữa cơm. Tôi hỏi
cháu có thích ăn cơm Việt
không, cháu nói rất thích vì mẹ cháu nấu rất ngon. Chị H. cười hóm hỉnh, cả ngày
các con ở trường ăn đồ ăn Tây, nói
tiếng Đức tiếng Anh nên ở nhà ăn cơm Việt để nói tiếng
Việt nhiều hơn. Học ngôn ngữ qua đường… dạ dày là nhanh nhất, phải không?
Ngay sau đó chị “trổ tài” làm ngay một “đặc sản” mà nay ở
Hà Nội cũng ít người có thể nấu ngon: món bún thang. Đây là món ăn rất hấp dẫn,
nhưng nấu thì phải thật tỉ mỉ, công phu. Giữa trời se lạnh xứ Tây mà chị dọn ra
một tô bún thang nóng hổi thơm phức, đúng chuẩn đủ cả bún tươi, gà luộc xé tơi,
trứng tráng mỏng xắt chỉ, giò lụa xắt chỉ, tôm khô, nấm hương và củ cải khô,
thêm nhúm rau răm xanh mướt dậy mùi… Vị ngọt thanh của nước dùng hòa quyện với
vị ngọt đậm của thịt gà vườn - mà chị phải về tận chợ quê để mua gà nông dân
nuôi… khiến tôi ăn một lần và nhớ hoài, chỉ mong lần nữa được thưởng thức tô
bún thang đậm chất “Hà Nội xưa”.
***
Tình cờ
một ngày lướt facebook, tôi nhìn thấy một cái tên đặc biệt nhưng rất quen
thuộc. Tôi đoán đó là người bạn đã bặt tin từ rất lâu. Hai đứa chỉ học chung với
nhau lớp 12 ở trường Marie Curie từ năm 1975. Hồi đó, lớp học phần lớn là các
bạn người Sài Gòn, chỉ có vài người là con cái cán bộ miền Nam tập kết trở về. Ba
má của chúng tôi cùng kháng chiến ở miền Tây thời chống Pháp, cùng tập kết ra
Bắc và hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, hai người cha rất thân thiết với
nhau. Bởi vậy, bặt tin bao nhiêu năm nhưng khi tình cờ tìm thấy, chỉ một lời
nhắn hỏi là nhận ra nhau ngay. Chúng tôi nối lại liên lạc và đã có dịp gặp nhau
ở Paris. Bạn tôi vẫn giọng Hà Nội dịu dàng như ngày nào, vẫn những nét giống
cha như hồi còn là cô con gái “rượu"...
Câu
chuyện gì của hai người bạn, hai cô thiếu nữ biết nhau khi mới 17 tuổi, nay là
những người phụ nữ “đã toan về già”, một đứa sinh sống trời Tây hơn 30 năm, một
đứa ở Sài Gòn mà thường xuyên vẫn lang thang đây đó? Ký ức về cây kem Tràng
Tiền ở Hà Nội, kem dừa Bạch Đằng ở Sài Gòn, về chuyện xếp hàng thời bao cấp vất
vả khó khăn; chuyện về những người bạn chung, chuyện gia đinh con cái, chuyện
xã hội… Nhưng trong câu chuyện của hai đứa nhiều hơn cả vẫn là kỷ niệm của hai
người cha. Hai ông đều là người trí thức chân chính, “dám làm dám chịu” để bảo
vệ giá trị nhân văn, tiến bộ của tác phẩm văn học - nghệ thuật, bảo vệ những
người tốt trước quan niệm bảo thủ, giáo điều vào thời kỳ đất nước mới thống
nhất… Những điều đó đã để lại cho hai chúng tôi sự hiểu biết, cách ứng xử và
nhìn nhận xã hội giống nhau, để lại cho cả hai đứa cá tính biết chịu đựng mà
cũng biết vượt qua nghịch cảnh để trở thành chính mình.
Trong
chuyến đi chơi, khi qua một quán cà phê thơm lừng mùi bánh crepe, bạn rủ tôi vào
và gọi những chiếc crepe thật ngon, bột mềm mịn thơm mùi bơ, trứng, mỏng mảnh
và dai mềm, với ly cà phê có mấy viên đá để chiều theo sở thích của người Sài
Gòn. Câu chuyện cuộc đời của bạn làm sống dậy ký ức về cuốn tiểu thuyết “Sans
famille - Không gia đình” mà thời thơ ấu chúng tôi cùng yêu thích. Đó là cảnh
cậu bé Remy đang háo hức chờ đợi chiếc bánh crepe ngon lành từ bàn tay của bà
má nuôi Barberin, bất ngờ ông bố Barbarin từ nơi xa trở về… Thế là tất cả bột
cả sữa, cả bơ cả trứng gà mà má Barberin đã phải đi vay hàng xóm… trong chốc
lát bị ông bố đổ tuột vào nồi súp hành. Hết cả bánh lẫn bữa ăn ngon mà hai má
con đã phải chờ đợi rất lâu mới có được. Những chiếc bánh crepe bị “cướp đi” là
dấu hiệu bé Remy bị đẩy ra khỏi vòng tay thương yêu của má Barberin, bắt đầu
bước đường lưu lạc đầy gian truân của cậu.
Bây giờ
tôi mới biết lý do hai đứa bặt tin nhau, vì cuộc đời cũng đã cướp đi “chiếc bánh
crepe” ngon lành của bạn và làm cho bạn bất ngờ phải bỏ lại quê hương ra đi…
Nhưng rồi như cậu bé Remy, vượt lên trên nghịch cảnh bằng nghị lực và tình yêu
gia đình vô bờ bến, bạn đã có được cuộc sống bình an nơi đất khách. Bằng sức
lao động cần mẫn và khéo léo, bây giờ bạn đã là một trong số rất ít thợ lành
nghề nhất của một hãng thời trang nổi tiếng của Pháp, người có thể làm “hàng
mẫu” cho dòng sản phẩm cao cấp nhất của hãng. Không chỉ vậy, bạn còn trở thành
người hướng dẫn, truyền dạy cho những thợ trẻ người Pháp kỹ năng thủ công tuyệt
vời của mình.
Nhìn con
cháu của bạn đã là những cô cậu “người Pháp” giỏi giang, thành đạt, nhưng rất
tình cảm và chu đáo với bạn bè của mẹ từ xa đến chơi, tôi nhận ra rằng, tự bạn
đã có thể làm những chiếc crepe ngon lành cho mình, luôn mang lại cho gia đình
và bạn bè vị ngon đặc biệt của loại bánh này. Giống như cuối cùng cậu bé Remy đã
được hạnh phúc bên gia đình ruột thịt sau nhiều năm xa cách vì nghịch cảnh.
***
Một lần đi trên đường phố Quận Cam (Mỹ), nhìn thấy mấy tàu chuối
vươn khỏi tường rào vẫy vẫy trên hè phố, tôi bỗng nhớ nhà da diết dù chỉ mới xa
nhà hai ngày trong đó có gần 20 giờ trong chuyến bay dài. Hỏi bạn, ở đây trồng
nhiều chuối không? Bạn như hiểu, trả lời: chị thấy nhà ai mà trồng bụi chuối
thì gần như chắc chắn là nhà người Việt mình. Ừ càng đi xa lại càng muốn lưu lại
chút gì của quê hương bên mình.
Bụi chuối sau hè, hồi nhỏ là sự sợ hãi mỗi tối khi phải ra đó vì một
lý do mà ai cũng như ai, là niềm vui khi thấy bắp hoa bắt đầu kết thành buồng
bé xíu xinh xinh, lớn dần lên, rồi từng nải trái già căng, mẹ chặt mang vô dựng
trong bếp gần khạp gạo. Vài bữa khi trái hườm hườm, nải chuối ngon nhất, đẹp nhất
được cha đặt lên bàn thờ ông bà, thắp nén nhang trước là lấy thảo sau là lấy
hơi ấm cho cả nải chín đều. Bạn nhắc hoài, bữa cơm Nam bộ ít khi thiếu vài trái
chuối sứ, từ con nít đến bà già đều quen với chén cơm chan nước cá kho thịt kho
ăn với chuối chín. Nhà có đàn bà sanh nở luôn có buồng chuối chín dần, canh chuối
sứ nêm chút muối chút đường là món ăn lợi sữa rất lành và cũng rất rẻ tiền, dễ
kiếm. Giữa buổi mà đói, có chén chè chuối
hay cái bánh chuối chiên thì không còn gì bằng.
Một người bạn khác có lần đi đâu đó đến tận bờ biển Mexico xa xôi.
Email bạn gửi cho tôi đầy thảng thốt: trời ơi, tui như đang ở bãi biển quê
mình, cũng hàng dừa đong đưa trong gió chiều, cũng mùi thơm của mực tươi cá
tươi, của ốc của sò nướng trên than hồng, cũng mấy trái khóm trái chuối mà mấy
bà đội cái thúng trên đầu mang bán… nhớ nhà quá trời… Bạn đã hơn 40 năm sống ở
Cali, đã tự coi mình như một người Mỹ “chánh hiệu”, vậy mà chỉ mùi thơm khói bếp
than cũng làm bạn bần thần rồi quyết tâm “tết này sẽ về nhà” dù ở quê nhà bạn
chẳng còn ai cả.
Đặc biệt khi đến những ngôi nhà của các anh chị thì nhận ra ngay “nhà
Việt”. Không chỉ có táo, nho, lê, mận căng mọng trĩu cành, chỉ nhìn thôi đã thấy
vị ngọt thấm vào tận… bao tử, mà ngon hơn cả là giàn bầu bí xanh non, những ngọn
mùng tơi, rau muống, đậu đũa, khổ qua xanh mướt trong khu vườn nhỏ. Tôi nói
đùa: tranh luận về “nguồn gốc dân tộc” làm gì cho mệt, cứ nhìn cái vườn, nhìn bữa
ăn thì biết ngay là người Việt gốc… rau: thiếu rau xanh thì không thành bữa cơm
Việt.
Dù ở nơi nào trên thế giới, qua hàng chục năm xa đất nước nhưng các
anh chị, bạn bè vẫn lưu giữ từng mảnh quê hương: chỉ là bữa bánh xèo Nam bộ với
rổ rau sống xanh tươi đủ vị, đĩa rau luộc chấm nước mắm dầm trứng, tô phở gà đậm
đà “Hà Nội”, bình gốm Bát Tràng, đĩa sơn mài mua từ phố cổ, những cuốn sách mới
xuất bản ở trong nước, giọng nói Sài Gòn hay Hà Nội thuần khiết của một thời
chưa xa, sự tinh tế trong giao tiếp, ký ức một thời “Sài Gòn hoa lệ” hay những
năm “Hà Nội thời bao cấp”… Tất cả đã mang lại cho tôi cơ hội chiêm nghiệm một
quy luật “văn hóa càng đi xa càng được bảo tồn nguyên vẹn”. Những người bạn ở
xa… thời gian các anh chị gắn bó với quê hương dù nhiều hay ít nhưng những gì họ
mang theo đã trở thành ký ức bền vững, bởi được nuôi dưỡng bằng tình yêu gia
đình, tình yêu đất nước.
Mỗi lần chia tay bạn bè, tôi đều hẹn sẽ gặp lại, hàng ngày, trên
internet. Để chia sẻ với nhau những khó khăn những nỗi buồn, để góp từng niềm
vui, mang lại cho nhau chút bình yên khi cuộc sống còn quá nhiều bề bộn và bất
trắc…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét