Nguyễn Thị Hậu
TỪ BIỆT NHỮNG CHUYẾN PHÀ
TÙY TÂM
Bạn hỏi: xem hai phim mới về Trịnh chưa? - Chưa, và chắc không.
Nhạc Trịnh – như đã kể trong một bài viết – tôi biết từ năm 17 tuổi, khi mới về
SG. Bài đầu tiên nghe là Nghe những tàn phai, rồi tất cả các băng Sơn Ca… Từ đó
nhạc Trịnh với tôi là Khánh Ly, và chỉ luôn nghe một mình.
Những ca sĩ sau này hát nhạc Trịnh cũng hay, nhưng không mang lại cho tôi cảm xúc
như lần đầu nghe Khánh Ly, và nghe suốt những năm bao cấp khốn khó sau đó… Vì vậy,
chưa bao giờ tôi đi nghe nhạc Trịnh ở phòng trà hay những dịp tổ chức kỷ niệm
ngày sinh ngày mất của Trịnh một cách hoành tráng. Thi thoảng nghe vài bài do các
ca sĩ khác hát, có thể thích có thể không, nhưng không chê, vì họ cho thêm một
cách cảm khác về Trịnh nhưng không hợp với tôi, vậy thôi.
Với phim về Trịnh cũng vậy. Đó
là một tác phẩm nghệ thuật
về Trịnh chứ không
phải là phim tài liệu. Góc nhìn của người sáng tác, dù bao quát đến đâu cũng không
thể như cái nhìn của mọi người về một “người của công chúng”. Đây là tác phẩm của thế hệ sau Trịnh, họ có quyền nhận biết
và tái hiện Trịnh như cách họ cảm nhận. Thời đại bây giờ cách vài năm đã là một
thế hệ khác, huống gì đã gần 50 năm trôi qua…
Góc nhìn cách hiểu năm 2022 sẽ khác cách cảm Trịnh những năm 1970, 1980 như của
tôi, càng không giống người cùng
thời với Trịnh, nhất là với người
tự coi là đã “biết tuốt” về Trịnh – mà chắc gì đã biết về Trịnh như thật – là –
Trịnh?
Còn nhớ vài lần ngồi “chầu” cuộc
nhậu của ba tôi với chú Nguyễn Quang Sáng, anh
Trịnh Công Sơn và vài người khác, khi nghe ai đó nói lại dư luận này khác về mình,
từ chuyện đời tư đến chuyện chinh trị… anh Trịnh Công Sơn chỉ mỉm cười, sau cặp
kiếng trắng ánh mắt lấp lánh như ngạc nhiên, giọng nhẹ nhàng: Ủa có chuyện đó hả?
Thôi kệ đi…
Phim về Trịnh Công Sơn và "cuộc đời ông" (dù chỉ một phần) cũng giống như những ca sĩ khác
Khánh Ly hát nhạc Trịnh: là một – phiên – bản – khác. Nếu anh còn sống, khi xem phim này hay khi nghe người ta bình luận đủ kiểu về phim và… về chinh mình, anh sẽ nói
gì nhỉ? Tôi lại hình dung thấy nụ cười
nhẹ nhàng thoáng chút hóm hỉnh của anh. Thôi
kệ đi…
Thơ Ngô Liêm Khoan
SÀI GÒN
SÀI GÒN NHÌN PHỐ NHỚ SÔNG
Thành phố Thông thoáng, Thông thương và Thông minh
Từ đầu năm 2022 TP. Hồ Chí Minh đã đẩy nhanh và hoàn thành việc chỉnh
trang khu vực bến Bạch Đằng, mang lại diện mạo hiện đại cho nơi này, đồng thời
mở ra hướng quy hoạch chỉnh trang toàn bộ “mặt tiền” sông Sài Gòn, nhằm thay đổi
cả hai bên bờ sông không chỉ ở đoạn trung tâm “dừng chân trên bến khi chiều nắng
chưa phai”, mà xa hơn, về phía Bình Dương hay ra phía Nhà Bè, Cần Giờ.
Như nhiều đô thị ở Nam bộ hình thành và phát triển bên những dòng
sông thành những “đô thị sông nước”, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh trải qua hơn 300
năm đã định hình là một thành phố ven sông Sài Gòn. Trước nay sông Sài Gòn thường
được biết qua khúc sông ở khu vực trung tâm làm nên một “Sài Gòn đẹp lắm”: Tân
Cảng, công xưởng Ba Son, hệ thống cảng Sài Gòn lớn nhất nước, hình ảnh bến Bạch
Đằng tấp nập người xe, bên kia là Thủ Thiêm còn giống như xóm làng miền Tây Nam
bộ. Rồi từ Cầu Mống vào Chợ Lớn là rạch Bến Nghé hai bên là nhà máy bến cảng phố
chợ... Do đó, sông Sài Gòn – rạch Bến Nghé được coi là “mặt tiền” của đô thị
Sài Gòn (xưa) vì ở đó hiện diện khá đầy đủ những đặc trưng kinh tế - văn hóa của
thành phố.
Có đi trên những chuyến bus đường sông từ bến Bạch Đằng về phía Thủ
Đức, Bình Dương hay về phía Cù Lao Phố - Biên Hòa, đi tàu cao tốc ra Cần Giờ,
Vũng Tàu hay theo sông Chợ Đệm ngược lên Vàm Cỏ Đông – Tây về Long An... mới thấy
TP. Hồ Chí Minh thiệt là rộng lớn! Từ thủa xa xưa những dòng sông đã mở rộng
thành phố về mọi hướng, đồng thời nhờ đó đô thị Sài Gòn được kết nối với toàn
vùng Nam bộ. Ngày nay nếu tái lập chức năng “đường thủy” những dòng sông này sẽ
trở thành “đại lộ” xuyên qua nhiều vùng cảnh quan tự nhiên còn khá nguyên vẹn sự
hoang sơ, hay các “vùng di sản” hàng trăm năm tuổi. Đó chính là nguồn tài
nguyên văn hóa có rất nhiều tiềm năng, không khó để khai thác và phát triển du
lịch nếu biết sử dụng và bảo vệ đúng cách.
Từ đầu thế kỷ 21 thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ
và lan rộng. Do quá trình hiện đại hóa nên hệ thống bến – cảng công nghiệp đã
di dời ra khỏi thành phố. Tuy nhiên, TP. HCM nếu mất tính chất “cảng thị” thì sẽ
mất đi một nguồn lực kinh tế cũng như nguồn lực văn hóa có được nhờ tính chất
giao lưu tiếp nhận những yếu tố mới từ bên ngoài, qua hệ thống cảng thị. Tính
chất “cảng” làm duy trì và phát triển sự cởi mở, năng động của thành phố. Vì vậy,
bên cạnh khu vực cảng kinh tế thì khu vực cửa sông – vịnh biển Gành Rái – Cần
Giờ - Vũng Tàu nên trở thành cảng du lịch lớn nhất, “cửa ngõ” quốc tế của thành
phố (bên cạnh đường hàng không là sân bay Tân Sơn Nhất và sau này là sân bay
Long Thành).
TP. Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất phía Nam, mang đặc
trưng “thành phố sông nước” tiêu biểu cho cả vùng Nam bộ. Vì vậy du lịch của
thành phố cần khai thác tính chất thông thương và thông thoáng của hệ thống
sông rạch. Khai thác tiềm năng sông nước có thể bắt đầu bằng bài học trong quá
khứ: từ sông Sài Gòn và mạng lưới kinh rạch tỏa ra khắp thành phố hình thành hệ
thống bus đường sông và các bến tàu kết hợp những trung tâm thương mại (theo mô
hình truyền thống: bến là/và chợ). Đó là sự khôi phục “văn hóa sông nước” với
tính chất “mặt tiền” của nhà của phố là sông, cùng với đó là hệ thống bến sông
thân thiện, thuận tiện cho dịch vụ du lịch đường thủy.
Chuyến khảo sát mới đây của lãnh đạo thành phố trên sông Sài Gòn
đã thể hiện kỳ vọng về sự thay đổi của những dòng sông, từ việc quy hoạch những
không gian công cộng khang trang hai bên bờ đến thay đổi môi trường sạch hơn của
dòng chảy, từ việc thiết kế những cây cầu sao cho dòng sông ngày càng đẹp hơn đến
việc xây dựng những tuyến điểm du lịch độc đáo, hấp dẫn, ghi dấu ấn một thành
phố đã qua gần nửa thế kỷ hòa bình... Một trong những mục đích quan trọng là hướng
đến phát triển du lịch, mang lại nhận thức mới về Tp. Hồ Chí Minh: là một trung
tâm kinh tế và trung tâm văn hóa!
TP. Hồ Chí Minh xây dựng “Thành phố thông minh” không chỉ từ những
khu công nghệ cao phần mềm hay từ việc ứng dụng và sử dụng thành quả của công
nghệ thời 4.0 và trí tuệ nhân tạo. Mà sự thông minh đầu tiên là nhận biết những
bài học hữu ích từ quá khứ: từ những lợi thế tự nhiên nhiều thế hệ đã sử dụng để
mang lại sự phát triển thịnh vượng và bản sắc riêng độc đáo của vùng đất Sài
Gòn.
TC Du lịch TPHCM số tháng 5/2022
KHI ĐÀN BÀ YÊU (Truyện ngắn, Nguyễn Thị Hậu)
1. Những cây cầu
Tình cờ cô nhìn thấy tấm
hình chụp gia đình anh ở nơi anh đang sống. Trong hình anh đứng bên người vợ
xinh đẹp, phía trước là câu con trai nhỏ hai tay nắm tay ba mẹ. Hai người không
đứng sát vào nhau, chỉ có mái đầu của người vợ hơi nghiêng gần như chạm
vào bờ vai vững chãi của anh, tin cậy và âu yếm.
Trên cao là bầu trời xanh, phía
sau hai người xa xa là dòng sông uốn quanh và những cây cầu nhiều hình
dáng. Chỉ một dòng sông chảy ngang đã làm cho thành phố đẹp lên rất nhiều bởi
hàng trăm chiếc cầu nối liền khi là những con đường, khi là thảm cỏ, cánh rừng,
khi là ngọn đồi, dốc núi… Nơi đây được gọi là “Thành phố của những cây cầu”,
nhiều lần anh đã kể với cô như thế.
Cô quen anh từ một người bạn
nhưng họ nhanh chóng thân nhau vì có chung nhiều điều quan tâm, suy nghĩ. Giữa
họ có biết bao chuyện “trên trời dưới đất” và trong những cuộc trò chuyện không
dứt của anh và cô bao giờ cũng có câu “Ừ khi nào em qua đây”… Câu nói có
khi là đùa bỡn, khi lại như lời hứa hẹn, nỗi ước ao, cũng có khi như một lời
xin lỗi… Tự nhận mình là những người “mơ hoang chuyên nghiệp” nhưng cả anh và
cô đều biết, chuyện đó, lúc này, với họ như là một điều không tưởng. Không phải
vì tiền bạc, không phải vì thời gian, những thứ thủ tục hồi nào khó khăn rắc rối
giờ đây cũng không còn là trở ngại, mà vì, như một câu hỏi lặng thầm luôn vang
lên giữa hai người “gặp nhau… rồi sao nữa…?”
Thời gian trôi đi. Những câu chuyện
không dứt rồi cũng ngắn dần. Giấc mơ “về nơi xa lắm” luôn khép lại trước khi được
thốt thành lời. Có khi năm bữa nửa tháng gặp nhau trên mạng, họ trò chuyện như
vẫn gặp mỗi ngày. Giữa câu chuyện vô thưởng vô phạt luôn là những dấu lặng kéo
dài, bởi vì còn đó niềm khát khao nỗi trông đợi sự dằn vặt… “gặp nhau… rồi
sao nữa?!”
Anh vẫn ở xa tít tắp với những dự
án những công trình. Cô vẫn mỗi ngày lu bu họp hành công việc. Khoảng thời gian
lệch nhau nửa ngày sáng tối bỗng là bức tường thành ngăn cách hữu hiệu. Mỗi
ngày khi mở trang facebook của mình cô cố gắng nén lại để không ném lên
câu status “có những buổi chiều sao quá dài như thế”. Chỉ cần
nhìn thấy cái chấm sáng nhỏ nhoi bên cạnh tên cô trong danh sách bạn bè là anh
cảm thấy bình yên, rằng cô vẫn còn đó, thật gần anh dù chỉ là trên không gian ảo.
Rồi cô có dịp đến thành phố của
anh. Một ngày trời cũng xanh như thế, một mình cô đi lên ngọn đồi cao, đứng ở
nơi anh đã chụp tấm hình ấy, nhìn xuống dòng sông và những cây cầu… tất cả nhòe
đi. Cô biết, không cây cầu nào có thể đưa cô đến bên bờ vai vững chãi của anh,
bởi vì giữa họ không phải là một dòng sông, bởi vì bên anh luôn có một người hướng
về anh đầy tin cậy và âu yếm. Người ấy cũng là phụ nữ, như cô…
Lặng lẽ bên bờ hai hàng cây nối
những cây cầu. Và dưới kia dòng sông vẫn miên man chảy.
2. Đón và đưa tiễn
Cô ra phi trường đón một người,
chuyến bay của anh sẽ đến vào lúc nửa đêm.
Từ chập tối, đi làm về cô vội
vàng ăn gói mỳ, rồi mở máy tranh thủ xem có email không. Vừa lướt qua những tài
liệu được gửi đến cô vừa nhìn đồng hồ dù khách sạn cô ở cách sân bay chỉ nửa giờ
xe taxi. Khi còn gần hai tiếng nữa, cô tắm và mặc một chiếc váy màu xanh. Trên
đường ra sân bay cô mới nhận ra chiếc váy này cô đã mặc và chụp hình gửi cho
anh vài ngày trước khi anh đi. Càng hay, anh có thể nhận ngay ra mình, cô mỉm
cười.
Các chuyến bay từ nửa vòng trái đất
thường đến vào giờ này, khi thành phố bắt đầu vắng lặng thì sân bay lại tấp nập.
Bảng đèn nhấp nháy báo hiệu các chuyến đến liên tục nhưng chưa hiện số hiệu
chuyến bay của anh. Lơ đãng giở tờ tạp chí ra xem, lại nhìn đồng hồ… rồi tự cười
mình “làm như là con nít mới lớn…”. Rồi chuyến bay của anh cũng hạ cánh. Dòng
người đổ ra quanh băng chuyền nhận đồ đạc rồi đi ra… mãi vẫn chưa thấy anh. Hay
là anh qua rồi mà không nhận ra mình? Rùng mình vì ý nghĩ vừa thóang qua thì cô
nhìn thấy anh. Anh cũng nhận ra cô, tay kéo valy tay kia giữ cái ba lô trên
vai, sải những bước dài đi về phía cô.
Sau này mỗi khi nhớ anh hình ảnh
này lại trở về, cảm giác quen thuộc gần gũi nao lòng…
Thời gian qua nhanh. Ngày chia tay. Lần này anh đưa cô
đi nhưng vào lúc trời rạng sáng. Dường như cả đêm đó cô không ngủ, vậy mà khi
anh lay nhẹ vai cô, cô vẫn giật mình thảng thốt.
Ngồi trên taxi cô chỉ mong quãng đường ra sân bay dài
hơn chút nữa. Nhà ga vẫn đông như mọi ngày.Họ đứng bên nhau, im lặng, thỉnh thỏang
cô tìm ánh mắt anh. Hình như anh không nhận
ra cô trong chiếc váy xanh ngày đi đón anh. Ở cổng an ninh sau cái ôm vội vã
anh quay đi, vẫn những bước sải dài… Cô ngoái nhìn
lưng áo trắng của anh khuất dần sau bao nhiêu gương mặt.
Có một điều cô định nói với anh mà quên mất: Đã bao
nhiêu chuyến đi và về nhưng đây là lần đầu cô có một người thân yêu để được đón
và đưa tiễn.
Mà bây giờ có lẽ không cần nói nữa.
3.
Mười năm
Không hiểu sao trong những
câu chuyện về tình yêu dang dở, những bài hát về sự chia ly hay có lời hẹn ước
“Mười năm…”. Mười năm - khoảng thời gian không hề ngắn của một đời người, nhất
là khi người ta đã ở vào tuổi trung niên (mà hình như ở tuổi này người ta mới hứa/
hẹn như thế, chứ nếu còn trẻ thì người ta sẽ hành xử khác?)
Sài
Gòn rộng đến độ
Mười năm ta
xa nhau
Chưa một lần
gặp em tình cờ trên phố*
Chia tay nhau lần cuối,
anh trìu mến ôm vai cô và nói, “có lẽ mười năm nữa ta mới gặp nhau, anh không
còn lý do gì để về lại quê hương”. Lúc đó cô chỉ cười và trả lời “ừ, nếu có gặp
nhau chắc là sẽ ở đâu đó ngoài quê mình. Bạn tạo điều kiện để mình đi chơi
chăng?”. Anh cười gượng gạo. Không biết anh có hiểu lời nói giỡn của cô đang
che dấu một sự thất vọng cùng cực, cô biết, mười năm nữa với cô - bây - giờ có
nghĩa là không - bao - giờ!
Mười năm trước anh và cô
chưa hề biết nhau, và mười năm sau nữa, anh và cô sẽ trở thành những người xa lạ.
Trong cái thế giới đang thay đổi nhanh đến chóng mặt, cả tình cảm và những mối
quan hệ của con người, thời gian của mỗi người chỉ tính bằng từng ngày từng giờ
thì mười năm là một khoảng thời gian khó có thể hình dung được. Không gian nào
cho 10 năm sau cô và anh gặp lại? Nguyên cớ nào để họ tìm về nhau? Và lúc đó cô
là ai, anh là ai? Không hiểu sao cô luôn đoan chắc rằng, mười năm nữa sẽ không
có gì thay đổi khi họ nghĩ về nhau, dù khoảng thời gian mười năm ấy có những
người đàn bà khác đi qua đời anh. Bởi vì giữa anh và cô không chỉ là một tình yêu không thể thay thế mà còn là một tri kỷ!
Đoạn đường dài một ngày
anh tiễn cô đi lúc mưa lúc tạnh, trời hôm ấy lạnh giá như một ngày đông dù đã
sang xuân.
Cô trở về thành phố của
mình, tiếp tục tồn tại trong cái “lãnh cung” mà cô tự xây cho mình khổ công như
yến làm tổ. Cô sống dù phải đếm từng ngày. Rồi sẽ đến lúc cô quên mất ngày thứ
bao nhiêu đã trôi qua…
Sài
Gòn vui đến độ
Ta không
còn đủ buồn
Để đi hết
những quán đêm*
Đoạn kết
Họ gặp nhau trong quán cà phê, ba
người đàn bà. Ly đá tan lõang, ly đen nguội
tanh. Một người nói: Chị đã nghĩ là em không nên đi… Ngập ngừng, người kia như tự hỏi: Còn chị, chị có ân hận khi không gặp anh ấy?
Người thứ ba lơ đãng khuấy vỡ lớp
bọt kem hình trái tim trên ly capuchino, màn hình ipad nhấp nháy những dòng chữ:
- Em vẫn còn yêu anh à?
- Vâng.
- Chuyện chúng ta đã chấm dứt...
- Tình yêu có phải là Hợp đồng
làm ăn đâu mà khi một bên hủy hợp đồng thì tình yêu dừng lại?
- Không phải lỗi tại anh...
- Không, đây là tình yêu của
riêng em, anh chỉ là người tình cờ đi qua...
Quán vắng. Mưa. Nước tràn đường
phố... Thấp thoáng đâu đó là hình bóng những người đàn ông đang ở rất xa...
(*
thơ Ngô Liêm Khoan)
Sài Gòn, 2012 - 2013. In trong cuốn này:
ADN XANH CỦA “ĐÔ THỊ CỔ” TRÀ VINH
TC Người đô thị số tháng 5/2022
Các đô
thị ở Nam bộ được hình thành từ khoảng đầu thế kỷ 20, hiện nay là nơi chứa đựng
những di sản phản ánh lịch sử - văn hóa – cộng đồng cư dân của đô thị đó. Hơn
nữa, là trung tâm của một địa phương nên đặc trưng văn hóa đô thị phản ánh đặc
trưng văn hóa của khu vực.
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, trong mục Thành trì chí cho
biết ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX đã có
những trung tâm kinh tế sầm uất. Tại mỗi trấn cùng với “thành” là trung
tâm hành chính thì nhà cửa phố xá bến chợ luôn được nhắc đến
như một thành phần quan trọng. Thời kỳ này Trà Vinh thuộc trấn Vĩnh Thanh. Năm 1834 vua Minh
Mạng đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Thời kỳ này
Trà Vinh thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Sau khi Pháp chiếm toàn bộ Nam kỳ, năm
1899 Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra nghị định đổi tên gọi
"hạt" thành "tỉnh" (province) và chia Nam Kỳ 20 tỉnh trong đó có tỉnh Vĩnh
Long. Từ lúc này trung tâm các “tỉnh” ở Nam kỳ bắt đầu hình thành những đô thị
hành chính, tiêu biểu là “tòa bố” (dinh thự làm việc của chủ tỉnh - chef de
province), dần được chỉnh trang và quy hoạch theo kiểu phương Tây: đường xá và
hạ tầng đô thị, không gian và công trình kiến trúc công cộng.
Từ khi khởi lập, vị
trí của các đô thị Nam bộ luôn ở trung tâm của mạng lưới giao thông đường thủy
từng khu vực, tận dụng sự thuận tiện của hệ thống sông, kênh rạch, đường biển và chế độ thủy triều…
Giữa các tỉnh hầu như đều có ranh giới tự nhiên là những dòng
sông lớn nhỏ.
Hiện nay có thể nhận thấy trên trục lộ chính cứ
qua một bến phà - nay là một cây cầu -
là vào địa phận một thành phố lớn/trung tâm một tỉnh.
Có thể nói tính chất của đô thị Nam bộ là “đô thị sông nước”, đô thị không chỉ
là những thành trì, các công trình hành chính hay tôn giáo
mà còn được biết đến vì những bến cảng “thị tứ” phong
phú hàng hóa, giao lưu trao đổi buôn bán trù mật, dân cư đông
đúc và đa
dạng.
Các đô thị ở Nam bộ tuy là trung tâm của
một vùng nông thôn rộng lớn nhưng không bị “nông
thôn hóa” mà ngược lại, có ảnh hưởng khá nhiều về lối sống, về sinh họat kinh
tế - văn hóa đến những vùng xung quanh. Một hiện tượng phổ biến tại Nam bộ mà
không thấy xuất hiện ở miền Trung hay miền Bắc, đó là ở nhiều tỉnh có huyện
“châu thành”, đó là đơn vị hành chính bao gồm hoặc ở sát thị xã trung tâm của
tỉnh. Trong quá trình phát triển, huyện Châu Thành là nơi “dự trữ” cho quy hoạch
đô thị và được “đô thị hóa” nhanh nhất.
2.
Thành phố Trà Vinh là tỉnh lỵ của tỉnh Trà Vinh, nằm bên bờ sông
Tiền, trên quốc lộ 53 và cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 200 km. Trà Vinh
có “mặt tiền” là dòng sông Cổ Chiên, có “đảo” là cù lao Long Trị và một số cù lao
nhỏ. Nằm giữa hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy khá hoàn chỉnh với các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, thuận tiện để phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội và là khu vực kinh tế trọng điểm của tỉnh.
Có thể thấy thành phố Trà Vinh vừa mang đặc điểm chung của các đô
thị Nam bộ là đô thị sông nước, “một thị tứ” vừa mang đặc điểm riêng là sự có
mặt, hòa hợp gắn bó lâu đời của ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa. Từ đó đã hình
thành một nền văn hóa đa tộc người, biểu hiện bằng các công trình kiến trúc tôn
giáo tín ngưỡng độc đáo.
Hiện nay thành phố Trà Vinh có 6 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc
gia và 1 di tích cấp tỉnh. Bao gồm các loại hình: Miếu thờ, Đình, Chùa Khmer,
chùa Hoa, danh thắng Ao Bà Om và quần thể di tích và thiết chế văn hóa quanh
đó, Đền thờ Hồ Chủ Tịch... Đặc biệt nằm ngay cửa ngõ vào thành phố là Chùa Hang
– di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia nổi tiếng, thuộc địa phận huyện Châu
Thành.
Ngoài ra còn có nhiều công trình kiến trúc khác, tuy
chưa được xếp hạng di tích nhưng là những công trình quen thuộc với cộng đồng
cư dân, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần của người dân như Chợ Trà Vinh,
nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm, chùa Khmer Điệp Thạch, chùa Phật giáo Thánh Tâm,
thánh thất Cao Đài...
Nhìn trên bản đồ có thể nhận diện
phạm vi của “Đô thị cổ” Trà Vinh là khu vực hình thành sớm, được quy
hoạch
theo kiểu “đô thị phương Tây” với các đường phổ nhỏ giao cắt nhau tạo thành ô
phố “bàn cờ”, hai bên là dãy nhà phố hoặc những biệt thự nhỏ xinh xắn. Vỉa hè
rộng trồng cây xanh đến nay đã hơn trăm năm tuổi, là
chứng tích của đô thị cổ xưa. Theo tài liệu lịch sử thì thành phố Trà Vinh có
một số công trình xây dựng thời Pháp, đó là công sở, trường học, bệnh viện, biệt thự kiểu Tây hay kiểu
“Đông Tây kết hợp” khá phổ biên ở Nam bộ. Tất cả đã hợp thành một hệ thống di tích
lịch sử phản ánh cấu trúc xã hội, tình trạng kinh
tế và nhất là tạo ra sự đa dạng của cảnh quan đô thị.
“Đô thị cồ Trà Vinh” là
khu vực mật độ đường phố cao, có cơ sở hạ tầng đô thị, tập
trung nhiều di tích lịch sử - văn hóa lâu đời và nổi tiếng, tiêu biểu cho các
loại hình di sản đô thị. Tất cả đã trở thành “dấu chỉ” để nhận biết tuổi đời và đặc
trưng của đô thị nhỏ nhưng rất đẹp này.
3.
Các
loại hình di sản văn hóa đô thị Trà Vinh tuy có công trình ra đời sớm hơn nhưng
phần lớn kiến trúc còn lại có niên đại thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Loại hình
kiến trúc của công trình tôn giáo tín ngưỡng, nhà ở, một vài công sở, không
gian công cộng… cho biết sự đa dạng về văn hóa cũng như các giai đoạn lịch sử
của thành phố. Hệ thống di tích lịch sử văn hóa của Trà Vinh phản ánh quá trình
hình thành và phát triển của một đô thị hòa hợp văn hóa các cộng đồng dân cư,
tạo nên ấn tượng về sự hiền hòa, bình an của đời sống đô thị.
Hệ
thống hàng ngàn cây xanh đô thị tuổi đời trăm năm, các loại cây đặc trưng của
vùng đất Nam bộ như cây me, cây sao, cây dầu... chính là một “thương hiệu” nhận
diện của đô thị Trà Vinh. Thành phố Trà Vinh có thể tự hào là
“đô thị xanh”, “đô thị di sản cây xanh”... độc đáo, phù hợp với xu hướng bảo vệ
môi trường trong thời kỳ biến đổi khí hậu khắc nghiệt hiện nay. “Thương hiệu”
hay danh tiếng của thành phố có thể được nâng cao, cải thiện hay suy thoái đi
một phần lớn thông qua giá trị di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy trong
đời sống hiện tại như thế nào. Hiểu biết và sử dụng hợp lý tất cả giá trị của
di sản văn hóa đô thị chính là phát triển bền vững.
Hiện
nay, thông qua việc nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy, truyền bá tri thức về lịch
sử văn hóa tỉnh Trà Vinh trong bối cảnh Nam bộ nói chung, những giá trị của di
sản văn hóa luôn được quan tâm bảo vệ, bảo tồn, trùng tu tôn tạo. Trà Vinh đã
biết dựa vào cộng đồng để duy trì đời sống của di tích, thực sự coi trọng vai
trò “chủ thể văn hóa” của cộng đồng dân cư. Có thể nhận thấy việc bảo tồn di
sản lịch sử văn hóa, “di sản cây xanh” ở “đô thị cổ” Trà Vinh không thể không
có vai trò quan trọng của các cộng đồng dân cư, nhất là tâm thức cư dân theo
Phật giáo Nam tông luôn gắn bó mật thiết với văn hóa truyền thống và cảnh quan thiên
nhiên.
“Đô
thị cổ” Trà Vinh hiện còn nhiều di tích lịch sử văn hóa độc đáo. Có thể nhận
thấy “ADN văn hóa” – những đặc trưng cơ bản của thành phố Trà Vinh là “đô thị
xanh”, văn hóa truyền thống phong phú và cộng đồng dân cư hiền hòa, thân thiện.
Đây là “vốn xã hội” quý giá và giàu tiềm năng để có thể phát huy và ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong kinh tế di sản và kinh tế du lịch.
Với
tuổi đời hơn một thế kỷ, các đô thị cổ ở Nam bộ trong đó có Trà Vinh là nơi
chứa đựng những di sản kiến trúc phản ánh lịch sử - văn hóa – cộng đồng cư dân.
Hơn nữa, đô thị luôn là trung tâm của một địa phương nên đặc trưng văn hóa đô
thị phản ánh đặc trưng văn hóa của khu vực. Lưu giữ, bảo tồn di sản văn hóa đô
thị chính là lưu giữ và phát huy giá trị vật chất và tinh thần của một vùng
đất, một địa phương.
Để
bảo tồn “đô thị cổ”, quá trình đô thị hóa và quy hoạch đô thị mới không nên tập
trung vào “vùng di sản” để tránh làm tổn thương và biến dạng, phá hủy khu vực
đô thị cổ. Ngược lại cần mở rộng, tạo dựng các khu đô thị mới, hướng đến việc
xây dựng “di sản đô thị thế kỷ XXI” cho đời sau. Đây là cách thức bảo tồn, tích
lũy và xây dựng thêm di sản văn hóa cho một địa phương.
Nguyễn Thị Hậu
Những hàng cây xanh (hình của tui) và "Tòa bố Trà Vinh" (hình: internet)
DI SẢN VĂN HÓA - MÂM CỖ ĐẶC SẮC CỦA DU LỊCH TP.HCM
Những tháng cuối năm 2021, tôi được tham gia đợt khảo sát di
tích lịch sử - văn hóa của TP.HCM (trong đó có thành phố Thủ Đức), do Sở Văn hóa Thông tin phối hợp với một số sở,
ngành tiến hành, nhằm bổ sung, điều chỉnh Danh mục kiểm kê di tích giai đoạn
2021 – 2026. Có đi khắp các quận huyện của thành phố mới thấy “tài nguyên du lịch
văn hóa” của thành phố vô cùng phong phú và đa dạng, tuy nhiên hoàn toàn còn ở
dạng nguyên sơ chưa được khám phá hết giá trị nhiều mặt của hệ thống di tích lịch
sử - văn hóa này.
Sự phong phú và đa dạng bắt nguồn từ văn hóa của các cộng đồng tộc
người sinh sống trên vùng đất Sài Gòn – TP. HCM: từ các di tích tín ngưỡng như
đình, miếu, nhà thờ họ, hội quán... đến di tích tôn giáo như nhà thờ, chùa, thánh
thất, thánh đường... Từ di tích kiến trúc như các công sở, biệt thự, công trình
công nghiệp... đến di tích của đời sống xã hội như chợ, nhà truyền thống, khu mộ
cổ... Số lượng di tích của thành phố rất lớn: Đến cuối năm 2020 toàn thành phố đã có 185
di tích được xếp hạng, trong đó có 02 di tích quốc gia đặc biệt (di
tích lịch sử); 58 di tích cấp quốc gia (02 di tích khảo cổ học, 32 di tích kiến
trúc nghệ thuật, 24 di tích lịch sử); 125 di tích cấp thành phố (75 di
tích kiến trúc nghệ thuật, 50 di tích lịch sử) [1]. Đồng thời Danh mục kiểm kê di tích lịch sử
- văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 – 2020 có
100 công trình địa điểm: 1 địa điểm khảo cổ, 71 công trình kiến trúc nghệ thuật
và 28 công trình, địa điểm lịch sử [2].
Có thể nhận
thấy, ngoài một số di tích nổi tiếng ở khu vực trung tâm (quận 1, quận 3, quận
5) đã trở thành địa chỉ quen thuộc của du khách, còn lại nhiều khu vực khác
cũng có những di tích, địa điểm có giá trị văn hóa mà nếu thiết kế thành chuyến
tham quan “one day” hay “two days”, liên kết với xe bus hoặc bus đường sông thì
nhiều khả năng trở thành sản phẩm du lịch rất hấp dẫn. Sản phẩm này trước hết tổ
chức trong ngày cuối tuần và hướng đến đối tượng chính là khách nội địa, nhất
là người dân thành phố. Đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, thư giãn đồng thời tăng thêm
sự hiểu biết cho người dân, nhất là với trẻ em và thanh thiếu niên.
Ngành du lịch
nên phối hợp với các quận huyện, thành phố Thủ Đức để tạo ra sản phẩm “đặc sản”
của từng khu vực (có thể liên quận nếu cùng những đặc trưng văn hóa), hoặc tour
“một con đường, một dòng sông” để tham quan các công trình kiến trúc, cảnh
quan, thưởng thức ẩm thực theo một tuyến đường/sông nổi tiếng, độc đáo.
Đường Đồng Khởi không dài lắm nhưng nằm ở
vị trí đặc biệt và đắc địa nhất trung tâm Sài Gòn, bắt đầu từ bờ sông Sài Gòn
và kết thúc ở quảng trường Công xã Paris, nơi có hai công trình được xây dựng
vào cuối thế kỷ 19 là Nhà thờ Đức bà và Bưu điện thành phố. Có thể coi quảng
trường này là “tâm” và với “bán kính” bằng con đường Đồng Khởi, quay một vòng
tròn chính là khu vực di sản của đô thị Sài Gòn. Trên đường Đồng Khởi có những cửa hàng, quán cà phê, khách sạn được nhiều người biết đến. Hiện giờ hầu hết cả tuyến đường đã thay đổi,
nhiều cái tên gắn liền với con đường nay chỉ còn là ký ức và đã trở thành thương hiệu của thành phố...
Đều có thể trở thành những điểm du lịch “one day” giới thiệu kiến trúc cổ và
thưởng thức ẩm thực của các khách sạn, nhà hàng sang trọng.
Đoạn “Bến Bạch Đằng” mới được chỉnh trang cũng
có thể nối dài theo bus đường sông về phía Thanh Đa hay theo sông Bến Nghé vào
quận 5 quận 8... vừa chiêm ngưỡng cảnh quan thành phố đang hiện đại hóa, vẫn
còn đó những dãy nhà phố cổ làng xóm xưa, kết hợp thưởng thức ẩm thực dân gian
trong các quán bình dân, trong chợ hay nhà hàng, bar... Nếu vào dịp lễ hội ở
các đình, chùa, hội quán thì du khách sẽ có một trải nghiệm thú vị.
Tất nhiên, TP.
HCM không chỉ là đường Đồng Khởi sầm uất sang trọng mà còn nhiều con đường hẻm
phố khác cũng ghi lại dấu ấn
văn hóa của người Sài Gòn. Cũng như bên
cạnh sông Sài Gòn, Bến Nghé còn có Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã được cải tạo chỉnh
trang sạch đẹp.
Có lẽ chưa bao giờ sau một biến cố xã hội mà ngành du lịch
của thành
phố thiệt hại nặng nề như vậy. Như các
chuyên gia dự đoán, ngành du lịch VN phải qua năm 2023 mới phục hồi như trước,
đồng thời sẽ phải cơ cấu lại để phát triển, trong đó ưu thị trường khách du lịch.
Có lẽ cần lưu ý phát triển phân khúc khách hàng nội địa, bởi vì đây là khách
hàng tiềm năng cho du lịch địa phương, nhất là khi mà lượng du khách nước ngoài
chưa thể phục hồi. Do đó cần bổ sung những mô hình phù hợp với điều kiện thời
gian, kinh phí của đa số khách hàng, với hình thức thân thiện và tăng cường giới
thiệu sự đa dạng văn hóa của thành phố.
Nhớ về những
nơi đã đi qua tôi nhận ra một điều: ngay trong những thời điểm khủng hoảng kinh
tế thì ở nhiều quốc gia, du lịch địa phương vẫn duy trì và phát triển nhờ vào
nguồn khách nội địa. Thị trường khách nội địa luôn được ưu ái, chính nguồn thu
từ đây sẽ giúp những thành phố lớn là trung tâm du lịch - dịch vụ có thời gian “dưỡng sức”
để bùng nổ trở lại và mạnh mẽ
hơn. Thực hiện được điều này là nhờ quan điểm phát triển du lịch phải coi di sản
văn hóa là “mâm cỗ” cho người trong nước trước khi là “đặc sản” cho du khách nước
ngoài.
Thì Sài
Gòn - TPHCM cũng là một nơi rất giàu có
về di sản văn hóa nhưng phần lớn người dân thành phố chưa được thụ hưởng “mâm cỗ”
này. Sao ngành du lịch không bắt đầu từ các tour ngắn để tham quan thưởng thức
di sản - ẩm thực – lễ hội tại các quận huyện của thành phố?
Nguyễn
Thị Hậu
[1] Danh sách các công trình, địa điểm đã được quyết định xếp hạng di
tích trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (đến hết tháng 12/2020). Trung tâm Bảo
tồn di tích – Sở VHTT TPHCM.
[2] Danh mục kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 – 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số:
923/QĐ-UBND ngày 07 tháng 3 năm 2017 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC
Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...