NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN CỦA TÔI

 Nhớ ba – đạo diễn sân khấu, Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Ngọc Bạch

1.

Hơn bảy mươi năm trước, vào năm 1942, ba tôi tốt nghiệp trường sư phạm Lasan Taberd ở Sài Gòn và được phân về dạy tại Cái Răng, Cần Thơ. Sau đó ông xin về dạy trường tiểu học huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang) - quê nhà - để tiện chăm sóc ông bà nội tôi.

Ông dạy lớp Nhứt nhưng được nhiều học trò các lớp khác biết và quý mến, vì là thầy giáo nhưng ông “có máu đờn ca hát xướng” – như một người học trò của ông là nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhớ lại. Thầy giáo mà biết đờn ca là một điều rất lạ đối với đám học trò ở một trường huyện xa xôi. Sau giờ học vào buổi chiều, ba tôi dạy hát cho học trò bằng cây đờn Banjo tiếng nghe giòn tan, vui tươi. Rồi ông thành lập nhóm “văn nghệ” vào ngày hè đi biểu diễn gây quỹ giúp học sinh nghèo trong trường. Tiếng hát của học trò đã mang lại sức sống cho phố huyện, ban hát của thầy trò đi đến đâu cũng được bà con ủng hộ. Sau này nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã viết về ông qua nhân vật thầy giáo trong tiểu thuyết Dòng sông thơ ấu.

Cách mạng tháng Tám, rồi Nam bộ kháng chiến, ba tôi được Ủy ban tỉnh An Giang giao cho việc thành lập Đoàn kịch Cứu quốc. Khi nghe ba tôi xin phép được “đi hát”, ông nội tôi suy nghĩ một hồi rồi nói “Tía xem đời Cụ Hồ chẳng khác nào như đức Thích Ca. Cụ là người như vậy, mà cụ cho hát, chắc là hát có ý nghĩa. Trào Tây, hát là xướng ca vô loại. Bây giờ, hát cho Chính phủ Cụ Hồ là hát cứu nước. Tía đồng ý cho con đi hát”. Ngày đó ông nội đã khấn trước bàn thờ Phật “Hôm nay con đưa các con đi theo Cụ Hồ đánh Tây giành độc lập, không để cho thằng Tây ngồi lên đầu lên cổ dân mình. Con cháu có gì sai quấy mong Cụ dạy bảo. Cầu trời Phật ông bà phù hộ cho con cháu bình an!” Giản dị vậy thôi! Năm 1947 ông nội tôi bị Tây bắn chết vì không chịu gọi mấy người con đi kháng chiến trở về.

Từ đó ba tôi từ giã bục giảng đi kháng chiến. Ông lập đoàn hát “Cứu quốc đoàn”, “Tuyên truyền xung phong” phục vụ đồng bào chiến sĩ từ sông Tiền dài xuống vùng đất U Minh. Thời gian này ba tôi sáng tác một số ca khúc như Hồn thiêng chiến sĩ, Tuyên truyền lưu động, Làn sóng dân chủ, Tháp Mười anh dũng... trong đó ca khúc “Cương quyết ra đi” là bài hát được nhiều người yêu thích và thuộc lòng, đến nay vẫn thường được biểu diễn và phát lại trên truyền hình, trên đài phát thanh.

Năm 1954 ba tôi tập kết ra miền Bắc. Kế tiếp là những năm dài ông thường xuyên vắng nhà vì những chuyến lưu diễn khắp nơi của Đoàn Cải lương Nam bộ, Đoàn kịch nói Nam bộ mà ba tôi làm trưởng đoàn: rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương, đường 559 Trường Sơn… Thời chiến tranh ông thường đưa đoàn văn công đi chiến trường phục vụ bộ đội. Có lần ông đến biểu diễn tại một binh trạm trên cung đường Trường Sơn. Ở đó trong cuộc trò chuyện một bác sĩ quân y đã nhận ra ông là thầy giáo của mình hồi lớp Nhứt. Thầy trò gặp nhau mừng rỡ, bác sĩ vẫn cung kính gọi ông là thầy xưng con như thủa ấu thơ.

 2.

Sau nhiều lần đi “B” nhưng không về được quê hương, tháng 5.1975 ba tôi trở về “tiếp quản Sài Gòn”, rồi về An Giang thăm quê hương yêu dấu sau hơn hai mươi năm “ngày Bắc đêm Nam”. Ông nhận công tác tại TP. Hồ Chí Minh, tổ chức và đón tiếp các đoàn nghệ thuật từ miền Bắc vào Nam, xây dựng bộ máy quản lý nghệ thuật, tổ chức lại các đoàn hát tại thành phố để có thể tiếp tục hoạt động trong hoàn cảnh xã hội mới... Năm 1979 ba tôi và một số văn nghệ sĩ quê An Giang như nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhạc sĩ Hoàng Hiệp, nhà văn Bùi Đức Ái (Anh Đức), nhà thơ Viễn Phương... được tỉnh mời về dự Đại hội thành lập Hội văn học nghệ thuật của tỉnh. Ba tôi đã có những lời tâm sự thể hiện tình cảm sâu đậm của ông dành cho quê hương.

             “Xin phép các đồng chí cho tôi được nói lên những cảm xúc của mình trong ngày vui mừng này của chúng ta, cảm xúc của một người con tỉnh nhà khi ra đi tóc hãy còn xanh, nay trở về thì đầu đã bạc trắng. Nhớ lại những ngày đầu chống Pháp, tôi và anh chị em trong đoàn kịch đầu tiên của Tỉnh nhà “Cứu quốc kịch đoàn” đã lặn lội phục vụ đồng bào trong tỉnh. Những hình ảnh năm xưa, kỷ niệm những ngày lưu diễn ở Chợ Mới, Ba Thê, Vĩnh Hanh, Chắc Cà Đao, Núi Sập… tôi còn nhớ như in, như câu chuyện mới xảy ra ngày hôm qua mặc dầu đã hơn ba mươi năm rồi.

Năm 1975, lần đầu tiên đặt chân lên Long Xuyên thân yêu, tôi bàng hoàng và hình như chưa tin một sự thật: quê mình đã giải phóng và mình đã trở về. Thưa thật với các đồng chí, hồi chín năm lặn lội khắp miền Tây, rồi 20 năm tập kết ra Bắc, khi thì lưu diễn ở Việt Bắc, khi vào tận Quảnh Bình, Vĩnh Linh, một thời gian nan trèo đèo lội suối phục vụ bộ đội Trường Sơn, suốt 30 năm ròng tôi chỉ tâm niệm một điều: Khi quê nhà giải phóng sẽ cùng với anh em, đồng chí trong đoàn về diễn tại tỉnh nhà phục vụ bà con cô  bác, dù chỉ được một lần rồi có chết cũng cam lòng!

Nhưng chiến tranh kéo dài và ác liệt quá... Thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đó là điều khẳng định. Tuy vậy, cũng có lần tôi tự hỏi, chừng nào mình về đến quê hương? Đời mình có thấy được ngày đó không hay phải tới đời con mình? Vậy mà bây giờ mình đã có mặt ở thị xã quê nhà! Tôi bỗng nhớ cái rạp hát Nhơn Hòa hay Nam Xương gì đó, còn không?

Hôm nay tôi lại về quê, cùng họp với các đồng chí để chung lo cho nền văn nghệ tỉnh nhà. Tôi vô cùng sung sướng. Sung sướng vì họp mặt ở đây có nhiều thế hệ nối tiếp nhau trên mặt trận văn nghệ. Sung sướng vì tôi thấy tỉnh ủy hết sức quan tâm đến đội ngũ chúng mình. Việc gọi chúng tôi, những người con của Tỉnh đang phục vụ nơi khác về dự hội nghị này làm cho chúng tôi hết sức cảm động. Việc gì cũng vậy: Hễ Đảng quan tâm thì việc sẽ xong thôi. Lãnh đạo Tỉnh nhà đặc biệt quan tâm đến Văn nghệ, vấn đề còn lại là nỗ lực của anh em chúng mình. Và nhất định là chúng mình sẽ cố gắng và sẽ thành công.

Riêng cá nhân tôi, là người con của An Giang, nay do hoàn cảnh chung mà phải công tác nơi khác, nhưng bất cứ lúc nào nếu các đồng chí cần, các đồng chí cứ kêu một tiếng, tôi xin có mặt ngay lập tức!”.

Cuộc đời của ba tôi gắn bó với sân khấu Nam bộ, từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc trở về Nam, tình cảm và trách nhiệm với “nghề hát”, với quê hương, ba tôi luôn giữ trọn!

3.

Ba tôi là người Thầy đầu tiên của tôi, không chỉ dạy chữ mà ba dạy tôi làm Người.

Ngày tôi còn nhỏ, một lần cơ quan ba tôi tổ chức chiếu phim tư liệu, trẻ em không được xem. Quen là con Út được ba luôn cưng chiều, tôi nhõng nhẽo đòi đi nhưng ông cương quyết không đồng ý. Tôi lăn ra khóc ầm ĩ, ba tôi dỗ không được, tức quá, ông đánh tôi một roi rồi bỏ đi! Khuya hôm đó, chợt tỉnh giấc, tôi nghe ông nói với má tôi: “Con còn nhỏ, đánh nó, thiệt là bậy quá! Nhưng mình là cán bộ, không gương mẫu làm sao nói được anh em? Anh em sai thì mình phê bình được, nhưng lãnh đạo mà sai nhiều khi anh em không nói ra làm theo cái sai đó thì tai hại vô cùng!”.

Tháng 1 năm 1973 Hiệp định Paris được ký kết, cả nước náo nức niềm vui vì nghĩ rằng ngày “hòa bình” đã đến. Khi đó tôi đang học lớp 7, trong niềm vui chung tôi có một niềm vui nhỏ dành tặng ba. Đó là việc tôi thi đậu vào trường Nghệ thuật Sân khấu. Khi tôi hồi hộp báo tin, không như tôi nghĩ, ba ngồi lặng với vẻ băn khoăn lo lắng. Cuối cùng ba nói với tôi, trang nghiêm mà trìu mến:

- Ba rất vui khi có một đứa con muốn nối nghiệp ba. Trước khi con tự quyết định tương lai của mình, ba muốn nói với con điều này. Mọi nghề nghiệp đều đẹp và đều sẽ thành công nếu ta lao động kiên nhẫn và trung thực. Nhưng trong nghệ thuật thì còn phải có một điều kiện quan trọng, đó là tài năng. Không có tài thì không có vai diễn hay, đã là diễn viên phải là một diễn viên giỏi. Đây không phải chuyện danh tiếng mà là chuyện làm gì để có ích nhiều hơn cho mọi người, cho xã hội, và cho bản thân mình.

Lần đầu tiên ông tâm sự với tôi về nghề nghiệp cùng những buồn vui thăng trầm của cuộc đời nghệ sĩ, qua đó tôi hiểu rằng với ba tôi, danh hiệu “nghệ sĩ” thật là cao quý! Từ đó tôi mới thực sự trở thành “người bạn nhỏ” của ba. Đến khi tôi tốt nghiệp đại học ngành Lịch sử và được trường giữ lại làm giảng viên, ba tôi rất vui vì tôi sẽ nối nghiệp nhà giáo mà ông bỏ dở. Ông nói với tôi, người thầy giáo cũng như người nghệ sĩ đều là những “kỹ sư tâm hồn”. Phải yêu nghề, yêu người, yêu đời sâu sắc thì mới có thể đứng trên bục giảng hay trên sân khấu để mang đến cho mọi người những điều tốt đẹp của cuộc sống...

Gần như cả cuộc đời ba tôi đi theo “nghiệp hát”, là nghệ sĩ nhưng ông giữ được sinh hoạt nền nếp của nghề giáo. Đó là luôn đúng giờ, ngăn nắp, sạch sẽ; thói quen ghi chép những điều nhìn thấy, cảm nhận, đặc biệt là tình yêu sách vở. Anh chị em tôi thừa hưởng được tình yêu với sách và văn học nghệ thuật là nhờ ba tôi!

Từ nhỏ đến lớn đều đi học trường của Pháp, lại dạy học trong thời kỳ tư tưởng phong kiến còn nặng nề, nhưng ba tôi nuôi dạy con cái với một tinh thần dân chủ. Ông không áp đặt con cái trong suy nghĩ, hành xử, chỉ phân tích đúng sai; luôn trao đổi và lắng nghe nhất là khi các con có khúc mắc hay khuyết điểm. Ba tôi cũng hay hỏi về công việc các con, lắng nghe các con nhận xét về cuộc sống, ông còn tâm sự về những lỗi lầm của mình để các con biết mà tránh, và biết để khoan dung cho lỗi lầm của người khác...  Sự dân chủ, công bằng còn là phương châm hành xử của ông trong nhiều cương vị lãnh đạo, trong đối nhân xử thế với bạn bè, đồng nghiệp, người thân.

Ba tôi luôn nói rằng, thái độ tôn trọng vợ con và công bằng trong ứng xử là điều ông được thừa hưởng từ người cha, tức là ông nội của tôi. Sau này đọc những gì ông nội tôi viết để lại cho con cháu, tôi càng thấy rõ sự “di truyền” truyền thống này gia đình mình. Đến lượt tôi, tôi còn được hưởng một điều may mắn khác: giữa ba tôi và giáo sư Trần Quốc Vượng – người thầy dẫn dắt tôi đi theo nghề lịch sử và khảo cổ - đã có một tình bạn vô cùng đặc biệt. Bởi vì cả hai người đều có sự hòa hợp tư chất của nhà giáo và nghệ sĩ, đều dạy con cái và học trò về tinh thần tự do đó là nền tảng để con người trở nên tử tế, hướng thiện và khoan dung.

Đấy là tài sản tinh thần rất lớn mà tôi đã được thừa hưởng!   

Nguyễn Thị Hậu



 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thương nhớ những hàng cây

https://tuoitre.vn/thuong-nho-nhung-hang-cay-20240512091631695.htm   Nguyễn Thị Hậu Những ngày này ở TP. HCM và nhiều nơi khác , có những ...