9. LÀNG LÁNG
Làng Láng – tên nôm của xã Yên Lãng - là một làng cổ nằm bên sông Tô Lịch đoạn từ ô Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở. Làng Láng nổi tiếng vì nghề trồng rau thơm, húng Láng ở đây nổi tiếng là thơm ngon. Làng trải dài dọc theo đường Láng có hai hàng cây xà cừ cao vút xanh mát, một bên đường là sông Tô Lịch. Hồi đó con sông chỉ là một cái mương nhỏ, nước đen ngòm, hôi thối. Sát bờ sông phía đường Láng là có những mảnh ruộng nhỏ trồng rau thơm, người ta vẫn lấy nước sông tưới rau. Phía bên kia sông là con đường đất nhỏ của làng Yên Hòa – nơi tôi theo học nốt học kỳ 2 của lớp 3 tại trường Yên Hòa.
Trên đất làng có nhiều chùa cổ, đình, đền cổ xưa rất
đẹp. Từ Cầu Giấy vào có Chùa Nền, chùa Láng ở Láng
Thượng, Chùa Mứng ở Láng Hạ. Nhà của bác chủ nơi chúng tôi ở nhờ gần Chùa Láng nổi tiếng
linh thiêng, mỗi ngày rằm, mùng một nhiều người từ nơi khác đến lễ chùa. Hồi đó tôi nghĩ
lại không biết sao giữa thời chiến mà vẫn có người “mê tín dị đoan” như
thế? (hồi đó ở miền Bắc đi lễ đình chùa bị coi là “mê tín dị đoan”, nhiều đình
chùa bị bỏ hoang hoang hoặc sử dụng làm nhà kho, gần như không còn lễ hội ở các
làng cổ). Sau này tôi mới
biết chùa Láng thờ vị thánh của Làng tên là Từ Đạo Hạnh rất linh thiêng. Ngài là thánh nhưng sau khi đi tu lại thành chính quả tức
là thành Phật nên mới được thờ phụng ở Chùa.
Thời gian
ở làng Láng không lâu, nhưng chị em tôi có nhiều kỷ niệm vui vui...
Mỗi sáng,
hai chị tôi (chị Hiền, chị Vân) học lớp 10, phải dậy rất sớm đi học trường Trần
Phú (từ Hà Nội sơ tán về) tận Cầu Diễn, cách đó khoảng 10 cây số. Hai chị đi bộ
vì làm gì có xe đạp hay xe bus đâu. Có lần hai chị đi sớm quá, qua đồn công an ở
ngã tư Cầu Giấy (ngay đầu cây cầu xi măng nhỏ, nay đã xây cầu mới to đẹp), mới
hỏi giờ, các chú công an nói mới có 4 giờ sáng hai đứa đi đâu sớm thế? Vậy là
hai chị ngồi ngay ở trạm, nhờ ánh đèn mà ôn lại bài vở.
Cũng ở đó
có một cửa hàng ăn uống của mậu dịch. Chị em tôi thường ăn cơm ở đó cả trưa lẫn
chiều. Mỗi sáng hai chị cho tôi 3 hào với 1 cái "tem gạo 225gr", trưa ra cửa hàng xếp
hàng mua cơm ăn rồi tự đi học buổi chiều. Cơm mậu dịch quanh quanh chỉ vài món:
thường xuyên món mặn là su hào kho hay nhộng rang, canh “toàn quốc” (toàn nước lõng bõng
vài cọng rau). Tôi không ăn được nhộng vì... sợ côn trùng từ nhỏ, nhưng rồi cũng
phải biết ăn vì chả có gì. Hai chị đi học về ăn sau có hôm không còn thức ăn,
chỉ mua được cơm rồi chan nước chè loãng làm canh. Kiểu ăn như thế là bắt
chước má tôi, bà thường chan nước lạnh vào cơm và lua rất nhanh “còn để làm việc
khác”, nhưng sau tôi mới hiểu là má nhường thức ăn cho các con, có khi chỉ là
chén cà chua hấp dầm nước mắm với chút tóp mỡ, có khi là vài miếng đậu phụ kho
với maggi.
Có hôm ra cửa hàng nhỡ hết cơm, tôi mang tem đến lò bánh mì gần đấy đổi lấy bánh mì ăn. Nếu chịu khó xếp hàng
thì cái tem 225gr và 2 hào được một cái bánh mì nóng hổi, tuy bột đen thui và mùi
chua chua, vỏ mỏng dính, nhưng nhờ nóng nên ăn không cũng ngon.
Cũng
ở đó tôi được gặp rất nhiều người, có những người quen mặt vì gặp nhiều lần, như
hai chị em đứa kia cũng khoảng tuổi tôi, hay ra mua cơm mang về nhà. Đứa chị xách
cặp lồng nhôm méo mó dẫn theo đứa em khoảng 3 tuổi, mua hai xuất cơm, lấy thêm
chai nước chè loãng từ cái thùng to ở góc có sợi giây buộc mấy cái ca nhôm đen
sì cáu bẩn để mọi người uống chung. Có lần tôi xếp hàng sau hai chị em, tôi hỏi,
sao đằng ấy không ăn ở đây luôn mà mang về làm gì cho mất công. Đứa chị trả lời:
mang về còn có các em ở nhà nữa. Tôi mới biết hai xuất cơm cho bốn chị em ăn
chung. Từ lần ấy ra cửa hàng là tôi nấn ná chờ để chia bớt cơm cho bạn, vì tôi ăn
không hết.
Mỗi chiều
đi học về tôi cũng hay lang thang dọc các ruộng trồng rau thơm, tuy mùi... khó
ngửi nhưng nhìn những ngọn rau nhỏ xanh mướt mát, lại có mùi thơm (nếu lén bứt
vài cái lá vò vò trong tay) tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Có lần còn bắt chước mấy người
tưới rau, đi qua sông Tô Lịch (nhỏ như cái rạch) bằng cây cầu bằng hai thanh tà
vẹt đường tàu nhỏ xíu, suýt bị lộn cổ xuống sông, may nhờ có bác kia đỡ. Bác mắng,
con gái mà nghịch quá thể, sao lại đi đường này?
Chúng tôi chỉ ở làng Láng một thời gian ngắn, sau đó về nhà ở gần chợ Mơ (hồi đó gọi là “quân khu chợ Mơ” nhưng không nổi tiếng bằng “quân khu Nam Đồng” toàn các "anh hùng" con bộ đội). Mỗi ngày tôi đi học bằng tàu điện từ Chợ Mơ lên Cầu Giấy, chuyển tàu ở Bờ Hồ, qua Đền Voi Phục... Trên tàu có lần tôi bị móc túi, thằng bé cứ khoắng mãi trong cái túi áo của tôi, đến lúc tôi quay lại nói “chả có gì đâu”, nó mới bỏ tay ra và lườm tôi một cái, ý là sao không nói sớm để nó khỏi mất công! Những khi tàu mất điện nếu chờ không được, bọn trẻ hò reo nhau xuống cùng đi bộ, đi mãi đi mãi... Về đến chợ Mơ có khi chỉ còn mình tôi.
Nhiều buổi
tối mịt mới về đến nhà, má tôi vẫn chờ cơm, dù luôn mắng “phủ đầu” là con gái
con lứa đi đâu giờ này mới về...
Sài Gòn 8.2025
Hình: các loại tem lương thực thời bao cấp từ 1975, các tem thời trước 1975 ở miền Bắc cũng định lượng như vậy nhưng hình vẽ khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét