TRẦM TÍCH DI SẢN VÀ HỒN CỐT PHƯƠNG NAM

 

Nguyễn Thị Hậu

 

Ngay từ khi mới khởi lập, Sài Gòn đã là một đô thị đa tầng, đa văn hóa, gắn liền với các đợt di dân lịch sử từ thế kỷ 17 đến nay. Trong các cộng đồng chính tạo nên "bức tranh ghép" đa sắc của cư dân Sài Gòn, vai trò quan trọng nhất là người Việt. Lưu dân Việt từ miền Trung, đặc biệt là vùng Ngũ Quảng... theo chân các chúa Nguyễn vào khai phá vùng đất phương Nam. Họ định cư, khai hoang, lập làng, và mang theo văn hóa, phong tục, tín ngưỡng (xây dựng đình làng thờ Thành hoàng, lễ hội dân gian, lối sông cư dân nông nghiệp…). Có thể nói cùng với việc thích ứng với điều kiện tự nhiên – xã hội mới, cư dân Việt đã góp phần hình thành và phát triển nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, nông nghiệp “miệt vườn” ở vùng Gia Định – Đồng Nai.

Những cộng đồng cư dân bản địa trước khi người Việt có mặt ở vùng đất này gồm có người Khmer, các nhóm khác như người Mạ, Stieng… nay ở miền Đông Nam bộ. Hiện nay người Khmer sinh sống tại khu vực Nhà Bè, quận 7, quận 3 mang theo văn hóa Phật giáo Nam Tông, lễ hội Ok Om Bok, Chôl Chnăm Thmây… Một bộ phận người Chăm có mặt tại thành phố trong nhiều giai đoạn lịch sử, họ theo Hồi giáo sống rải rác ở khu vực Tân Bình, quận 8. Người Chăm ở Sài Gòn theo tín ngưỡng riêng, có làng nghề dệt, nghề buôn bán và nghệ thuật dân gian đặc sắc.

Quá trình xây dựng và phát triển miền Nam còn có vai trò quan trọng của các cộng đồng người Hoa (Triều Châu, Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến, Hải Nam). Thế kỷ 18, người Hoa trong phong trào “bài Thanh phục Minh” chạy sang Đàng Trong và được chúa Nguyễn cho phép định cư. Họ đã xây dựng hai cảng thị sầm uất là Cù Lao Phố (Biên Hoà – Đồng Nai) và Mỹ Tho đại phố (Mỹ Tho – Tiền Giang). Từ cuối thế kỷ 18 người Hoa tập trung tại Chợ Lớn, xây dựng nơi này thành một trung tâm thương mại, văn hóa lớn. Hiện nay người Hoa ở Chợ Lớn vẫn phát triển nghề buôn bán, thủ công, y học cổ truyền, duy trì nhiều lễ hội và hệ thống di tích kiến trúc tín ngưỡng độc đáo.         

            Từ cuối thế kỷ 19 – nửa đầu thế kỷ 20, một lượng nhất định cư dân Pháp và phương Tây đến sinh sống tại Sài Gòn, tạo ra ảnh hưởng sâu đậm về kiến trúc, quy hoạch đô thị, hệ thống hành chính, tôn giáo (Công giáo), và phong cách sống. Sau 1954 sự có mặt của quân đội của Mỹ và các nước đồng minh cũng góp vào sự đa dạng về đời sống xã hội thành phố. Ngoài ra Sài Gòn còn có cộng đồng ngoại kiều Ấn, sau này là Hàn, Nhật...

Từ sự đa dạng về nguồn gốc cư dân, vùng đất Sài Gòn cũng là nơi có sự đa dạng văn hóa, có lối sống hòa hợp, khoan dung. Môi trường tự nhiên – xã hội mới hình thành nên tính cách con người nơi đây cởi mở, hào sảng, năng động, nổi bật tinh thần "Sài Gòn nghĩa tình". Sài Gòn là thành phố của những dòng người hội tụ – mỗi cộng đồng góp một phần vào tổng thể văn hóa phong phú, từ đó tích tụ một di sản tinh thần luôn biến động nhưng vẫn giữ được cốt lõi. Có thể nói sự hoà quyện của những tính cách nổi bật như năng động trong làm ăn, dám làm dám chịu, nghĩa khí chống cường quyền, nghĩa tình nhất là với người cơ nhỡ  tạo nên hình ảnh tốt đẹp của người Sài Gòn/ Nam bộ.

***

Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh vẫn được coi là một “vùng đất mới ba trăm năm”, một “thành phố trẻ” hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, những dấu tích trên vùng đất Sài Gòn đã cho biết những cộng đồng cư dân cổ đã để lại một hệ thống hơn 30 di tích khảo cổ học từ thời nguyên thủy đến thời kỳ vương quốc Phù Nam và sau đó.

Quá trình hình thành và phát triển vùng đất này được phản ánh bằng hệ thống di sản đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh. Đó là những di tích, công trình ghi dấu ấn phát triển và đời sống văn hóa của đô thị, gồm có 10 loại hình và hàng ngàn di tích, niên đại từ khoảng 3000 năm trước đến giữa thế kỷ 20. Tính đến thời điểm cuối năm 2024, trên địa bàn Thành phố có 193 di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng, trong đó có 02 di tích quốc gia đặc biệt, 58 di tích cấp quốc gia, 133 di tích cấp thành phố, hơn 100 địa điểm khác được đưa vào kiểm kê di tích... bao gồm các loại hình di tích lịch sử văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học, di tích lịch sử cách mạng...

Di sản đô thị thành phố có giá trị nhiều mặt: giá trị truyền thông vì di sản luôn mang nhiều thông tin đến với cộng đồng chủ thể và nhiều cộng đồng khác nhất là trong thời đại toàn cầu; giá trị khoa học vì di sản mang thông tin quan trọng về văn hóa, lịch sử hoặc nghệ thuật, không thể thay thế được vì đó là biểu tượng, biểu trưng của một thời, một sự kiện, một con người; di sản còn có giá trị kinh tế vì di sản mất đi có thể gây nên mất mát “lợi ích vật chất” cho cộng đồng. Di sản đô thị được lưu lại trong “ký ức tập thể” của nhiều thế hệ dân cư Sài Gòn và du khách.

Thời gian nửa sau thế kỷ 20, do chưa nhận thức đầy đủ về giá trị di sản văn hóa, nhiều di sản đô thị ở TP. Hồ Chí Minh đã không được trân trọng, sử dụng và giữ gìn tương xứng với giá trị. Mặt khác, từ đầu thế kỷ 21 quá trình hiện đại hóa và xây dựng hạ tầng giao thông tại khu vực trung tâm diễn ra mạnh mẽ, đã có những tác động tiêu cực và phá vỡ “tính hệ thống” của di sản đô thị. TP. Hồ Chí Minh cũng như Hà Nội và nhiều đô thị khác, do áp lực của quá trình phát triển kinh tế và đô thị hóa nên việc cân bằng giữa yếu tố bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế là vấn đề nan giải cho các nhà quản lý đô thị. Khoảng mười năm gần đây việc bảo vệ di sản đã có chuyển biến tích cực. Ý thức về di sản văn hóa trong xã hội được nâng cao thông qua các công trình khoa học, khảo cứu, văn học, trên phương tiện truyền thống như báo chí, truyền hình... Nhiều chính sách của nhà nước và chính quyền thành phố thể hiện quan điểm về bảo tồn di sản văn hoá đáp ứng nhu cầu thực tiễn.

Khác với những tài sản có giá trị kinh tế khác, di sản văn hóa không thể tái tạo hoặc thay thế. Giá trị kinh tế của di sản văn hóa phải nhìn nhận trong một phạm vi rộng, thời gian dài, cần được khai thác phù hợp như mọi nguồn tài nguyên khác, hướng đến bảo toàn nguồn tài nguyên cho thế hệ tương lai. Bảo tồn di sản là phương thức đặc biệt của phát triển bền vững, đây là quan điểm chủ đạo và cũng là bài học kinh nghiệm của thế giới cho việc bảo tồn di sản văn hóa ở TP. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.

Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là trung tâm kinh tế – văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn là thành phố trung tâm, tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh với 300 năm lịch sử chứa đựng một quỹ di sản văn hóa đa dạng và quý giá, phản ánh lịch sử - văn hóa vùng đất Nam bộ - xứng đáng được quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị một cách tốt nhất, để TP Hồ Chí Minh cùng cả nước vững vàng bước vào “kỷ nguyên mới”!

 

TP. Hồ Chí Minh, ngày 15/4/2025

Bài cho Tạp chí truyền hình (VTV)




 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TRÔI ĐI NHỮNG BỒNG BỀNH của hoạ sĩ Vũ Hoàng Tuấn

  Mình rất thích tranh của Vũ Hoàng Tuấn, có lẽ vì mình "cảm" cái chất dân gian hóm hỉnh, hay chất sang cả mà sâu lắng "kiểu ...