https://nguoidothi.net.vn/thong-nhut-la-gi-ha-ma-48012.html
Nguyễn thị Hậu
Từ hồi nhỏ xíu tôi luôn được nghe hai từ “thống nhứt”:
bao giờ thống nhứt, đến khi thống nhứt, thống nhứt mình dìa quê... Đó là những
câu nói mà suốt hai mươi năm trên đất Bắc, ba má tôi thường nói với các con, với
bạn bè đồng nghiệp – những cô chú anh chị Nam bộ tập kết như ba má tôi. Những
lúc đó tôi hay hỏi má: má ơi thống nhứt là gì hả má? Má tôi trả lời, giọng nghẹn
ngào: thống nhứt là khi mình được về quê con ạ!
Từ đó, thống nhứt với tôi là một tương lai khó hình dung
nhưng luôn gần gũi thân thuộc, bởi đó là niềm tin mãnh liệt, là tình cảm cháy bỏng
được nuôi dưỡng mỗi ngày, là một tia hy vọng có lúc tưởng đã tắt khi chiến
tranh ngày càng ác liệt...
Sau ngày 30.4.1975, thấu hiểu sâu sắc hơn giá trị của hai
từ “thống nhứt” có lẽ là những người lính chiến đấu trên chiến trường xa lạ, là
những người “tập kết” hay “di cư”. Bởi khi hòa bình lập lại, được trở về quê hương hay không thì trong họ cũng nguôi
bớt nỗi đau vì sự chia cắt đất nước, chia lìa quê hương. Mà trên đất nước Việt
Nam nỗi đau này đâu chỉ tồn tại hai mươi năm mà còn là di chứng của hai trăm
“đàng ngoài đàng trong”, là một trăm năm “ba kỳ bắc trung nam”...
---
Tháng ba năm nay, tôi có vài ngày trở lại Quảng Trị - mảnh
đất “tiền tiêu” của cả hai bên trong cuộc chiến tranh ác liệt nhất trên đất nước
ta. Những địa danh đã đi vào lịch sử đất nước, trở thành ký ức của nhiều người
nhiều gia đình dù có thể chưa hề đến đây: Vĩ tuyến 17, sông Bến Hải, cầu Hiền
Lương, sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn... và
nhiều địa danh nhắc nhở những trận chiến ác liệt: Đông Hà, Cam
Lộ, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Nam
Lào, Tà Cơn, Làng Vây...
Với gia đình tôi, những địa danh này càng có ý nghĩa sâu
sắc. Từ nhỏ tôi thường được nghe bài hát “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của Hoàng
Hiệp và Đằng Giao - hai nhạc sĩ Nam bộ tập kết, cũng là những người đồng nghiệp
thân thiết của ba tôi. Rồi lớn hơn, má tôi thường nói tôi hát “Ai đã tới miền
quê em Quảng Trị Thừa Thiên, qua đường 9 tình Gio Linh lắng trong giọng hò...”*,
những địa danh má tôi luôn tìm hỏi thông tin vì là nơi anh tôi đóng quân, nơi ba
tôi thường đưa các đoàn văn công đi phục vụ chiến trường.
Những năm 1968 – 1975, anh Hai tôi là bộ đội thuộc một
binh xưởng ở miền Tây Quảng Bình, sửa chữa xe và binh khí cho toàn tuyến đường
Trường Sơn huyền thoại. Cung đường anh thường xuyên đi lại là Quảng Bình - Quảng
Trị, có khi vào đến Bắc Tây Nguyên. Năm 1971 đơn vị anh phục vụ chiến dịch Đường
9 Nam Lào, thời gian này ba tôi cũng đưa Đoàn Kịch nói Nam bộ đi chiến trường.
Một lần trên đường hành quân trong đêm tối mịt mùng và những đoàn xe đi ào ào,
anh Hai và ba tôi tình cờ gặp nhau... Hai chiếc xe đi ngược chiều vậy mà linh cảm
thế nào hai cha con nhận ra nhau, chỉ kịp gọi: Ba ơi – con Bửu... rồi hai chiếc
xe vẫn đi tiếp. Sau chuyến đi đó, thủ trưởng mặt trận biết chuyện đã bố trí cho
ba tôi đến binh trạm thăm anh Hai được một ngày.
Quảng Trị là nơi có Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Từ
nhiều năm nay hơn 10.000 ngôi mộ liệt sĩ được quy tập về đây, hơn mười ngàn
chàng trai tuổi đôi mươi, quê từ 63 tỉnh thành đang quây quần tại đây… Chúng
tôi chỉ đến được vài khu vực trong số hàng chục ngàn nơi yên nghỉ của những
chàng trai Hà Nội, Hà Bắc, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, của vài tỉnh
miền Nam, miền Trung… thắp vội vài nén nhang, lòng cầu mong các anh thông cảm
vì không thể đến với từng người…
Lướt qua những dòng bia mộ, có anh nhập ngũ được vài năm,
có anh nhập ngũ mới vài tháng, nhiều anh còn chưa tìm thấy tên tuổi… Nghĩa
trang Liệt sĩ Trường Sơn giờ đã khang trang hơn xưa, nhưng vẫn nắng Quảng Trị,
vẫn gió miền Trung, vẫn xào xạc lá rừng Trường Sơn, vẫn những tên tuổi năm
tháng ấy, thời gian ở đây như ngập ngừng không muốn trôi qua để giữ mãi tuổi
thanh xuân của những người đã yên bình nơi đây…
Rời Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, chúng tôi dừng lại ở
cầu Thạch Hãn, rồi đến Thành cổ Quảng Trị “81 ngày đêm đỏ lửa, đỏ máu”. Nắng
hôm nay có dội lửa như những ngày năm ấy? Gió hôm nay có thiêu đốt như những
ngày năm ấy? Con sông Thạch Hãn hiền hòa hôm nay đã từng quặn dòng trong những
ngày năm ấy…
Những năm chiến tranh, má tôi cũng như bao bà mẹ khác,
luôn thấp thỏm mong chờ tin tức của chồng con. Ngày hòa bình má tôi may mắn khi
chồng con trở về bình yên, nhưng có biết bao người vợ, người mẹ không được đón
chồng con trở về? Trên đất nước này còn biết bao nghĩa trang của bên này bên
kia chưa được xây dựng đàng hoàng khói nhang ấm áp? Trên đất nước này còn biết
bao người chưa bình yên khi nắm xương của người thân chưa được tìm thấy, nấm mồ
người nhà còn chưa được chăm nom? Dứt ruột sinh ra con nào không là con của mẹ,
bên này, bên kia… như hai bờ của dòng sông quê nhà, lỡ chia đôi nhưng một chuyến
đò ngang cũng đủ nối liền. Cầu Hiền Lương đã liền một nhịp, 50 năm rồi vết cắt nơi
vĩ tuyến 17 đã lành chưa...
Nỗi đau và mất mát của chiến tranh và sau cuộc chiến
không từ một ai, trong gia đình tôi cũng vậy. Nhưng người trong một nhà, bên
này hay bên kia không bao giờ nói đến hai chữ “thắng thua”, không màng hai chữ
"được, mất". Để làm gì khi còn đó nguyên vẹn một quê hương, bà con nghĩa
tình Bắc – Nam còn đó... Bao năm rồi tôi luôn mong những ngày này tại các nghĩa
trang trên cả nước vang lên tiếng chuông cầu nguyện cho tất cả những người đã mất
trong cuộc chiến. Một lần và mãi mãi, để quê hương thực sự hòa bình, thực sự
hòa hợp, thực sự thấu hiểu và yêu thương...
---
Điểm cuối chuyến đi của chúng tôi là cố đô Huế. Một lần nữa
viếng thăm Đại Nội. Trước sân Thế Miếu vẫn là hàng 9 Cửu Đỉnh
được đúc thời vua Minh Mạng. Vào tháng 10 âm lịch năm Ất Mùi (1835), nhà vua ban chỉ dụ
ra lệnh cho Nội các cùng bộ Công đôn đốc công việc đúc Cửu Đỉnh. Buổi đại lễ khánh
thành diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 để đặt Cửu đỉnh ở sân Thế Miếu dưới sự
chủ trì của vua Minh Mạng.
Nhiều công trình nghiên cứu đã nói về ý nghĩa của Cửu Đỉnh:
như một biểu tượng quyền lực hoàng gia, sự vững chắc, trường tồn tại của triều
Nguyễn, là đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật kỹ thuật đúc đồng phường Đúc
kinh đô Huế. Cửu Đỉnh là tác phẩm đúc đồng lớn nhất và thể hiện trọn vẹn tinh
thần Đại Nam thế kỷ 19.
Nhưng ý nghĩa quan trọng nhất của Cửu đỉnh, theo tôi đó là
một công trình “tượng đài thống nhất” lãnh thổ nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà
Mau, sau hơn hai trăm năm chia cắt đàng ngoài đàng trong và công cuộc mở đất về
phương Nam.
Trên mỗi đỉnh đều là những hình ảnh đúc nổi về những cảnh
vật, núi sông, rừng biển, động vật, cây cỏ tiêu biểu của “non sông gấm vóc” toàn
cõi Việt Nam, những vùng miền từ núi cao đến biển sâu, từ đồng bằng sông Hồng đến
đồng bằng Cửu Long. Những hình ảnh của Cửu đỉnh là sự đa dạng, phong phú, giàu
có của thiên nhiên và văn hóa đất nước. Tính đến năm đúc Cửu đỉnh thì chiến
tranh đã lùi xa hơn 30 năm, một đất nước thống nhất hiển hiện rõ ràng từ thiên
nhiên và từ văn hóa, bắt đầu từ tầm nhìn của một vị vua!
Cửu Đỉnh không chỉ là một công trình mang ý nghĩa chính
trị - đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới. Cửu đỉnh còn là công trình văn hóa tiêu biểu nhất của đất
nước. Những hình ảnh của Cửu đỉnh truyền tải giá trị, tinh thần và bản sắc văn
hóa của quốc gia Việt Nam – Đại Nam. Một tượng đài thống nhất – hòa bình sau những
năm dài chiến tranh chia cắt mà không hề có hình ảnh chiến tranh, đó là nhờ sự
thấu hiểu hòa bình thống nhất là mục đích duy nhất và cuối cùng của mọi cuộc
chiến tranh! Công trình văn hóa này đại diện thời đại mới của đất nước, cho sự
trường tồn của đất nước, mang giá trị nhân văn của cộng đồng và nhân loại.
---
Thống nhứt là gì hả má? 50 năm qua câu hỏi này vẫn còn đó
trong tôi! “Giang sơn thu về một mối” chỉ là bước khởi đầu, bởi vì “suy cho
cùng sau mỗi cuộc chiến tranh, bên nào thắng thì nhân dân cũng bại”**, bởi vì
ngày kết thúc chiến tranh là ngày “triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn”***...
Thấu hiểu điều đó lòng người mới thôi chia cắt, thống nhứt đất nước bắt đầu từ sự khoan dung lòng trắc ẩn
giữa những người Việt Nam.
Một câu nói trong tiểu thuyết CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ của nhà
văn A.Tolstoi được nhiều người thế hệ của tôi nhớ đến: “Năm tháng sẽ trôi qua,
những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, và
chỉ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại, dịu dàng và chan chứa tình yêu
thương.” Đây là thông điệp của tác giả gửi đến cho người đọc khi đã trải qua
“con đường đau khổ” cùng ông, cũng là khát vọng của mỗi người, mỗi quốc gia từng
trải qua một thời chiến tranh, dù ở thời đại nào hay ở nơi nào trên thế giới.
TP. Hồ Chí Minh, 18.3.2025
*Bài
hát Tiếng hát trên đường quê hương của nhạc sĩ Huy Thục
**Câu
thơ của nhà thơ Nguyễn Duy
***Một câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét