GIẢI BA CỦA CUỘC THI "CHUYỆN CỦA NHỮNG DÒNG SÔNG" DO BÁO VIETNAMNET TỔ CHỨC
MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG (Nguyễn Thị Hậu)
Một
ngày tháng 5.1975. Chuyến xe đưa tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn phải dừng lại chờ
phà rất lâu bên bờ Bắc sông Gianh trên đất Quảng Bình. Lúc
ấy cảnh quan bến phà còn như thời chiến tranh, đường dẫn xuống phà lổn nhổn gạch
đá, đất đỏ bụi mù, cây cối xơ xác… Đoàn xe đi “tiếp quản” miền Nam nối dài hàng
cây số chờ qua phà. Chỉ có hai chiếc phà lừ đừ qua lại, người xe nhốn nháo cả
ngày giữa nắng quái tháng năm đến suốt đêm. Trong bộ quần áo bộ đội, mũ cối
trên đầu, gương mặt những công nhân lái phà cũng bạc ra vì mệt mỏi nhưng họ vẫn
miệt mài làm việc.
Bến
phà sông Gianh từng là trọng điểm đánh phá của đạn bom Mỹ trong cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc. Địa danh này tôi được biết từ khi còn nhỏ. Khi ấy anh
tôi là bộ đội đóng ở một binh trạm sửa chữa xe ở khu vực này, còn ba
tôi cũng nhiều lần đi công tác qua đây. Vào khoảng năm 1967 trong một chuyến
lưu diễn, khi vừa qua phà sông Gianh thì ba tôi phát hiện chiếc ví trong túi quần
không còn nữa. Trong đó là toàn bộ giấy tờ của đoàn công tác, không biết rơi mất
từ lúc nào, vì cả đoàn hành quân từ sáng sớm, qua bờ nam sông Gianh mới lên xe
đi tiếp. Ba tôi quay lại bến phà, trình bày sự việc để được qua phà ngược về bờ
Bắc (bảo vệ bến phà hỏi rất kỹ vì có trường hợp người đi lạc, hoặc đề phòng “B
quay” – người đào ngũ). Ba tôi nghĩ là không thể tìm thấy chiếc ví nhỏ trên con
đường nườm nượp quân đi, nếu rơi lúc lên xuống phà thì không còn hy vọng. Vậy
mà như một phép màu, giữa đêm tối bụi mịt mờ, chỉ có ánh đèn pin nhỏ xíu mà ông
nhìn thấy chiếc ví nằm
trên một gốc cây bên đường, chắc chắn ai đó đã
lượm được và để đây cho người mất quay lại lấy. Ba tôi mừng đến rơi nước
mắt…
Sau
này lịch sử còn cho tôi biết, sông Gianh từng là nơi xảy ra nhiều trận chiến vô
cùng ác liệt. Từ năm 1627 đến 1672 hai bên Trịnh–Nguyễn giao tranh liên tục ở
vùng này. Tuy cùng lấy danh nghĩa "Phù
Lê" nhưng sau
nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp
nhận đình chiến. Sông Gianh trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng
Trong và Đàng Ngoài trong hơn hai trăm năm sau đó.
Đại
Nam liệt truyện kể rằng, sau trận chiến ác liệt kéo dài vào cuối vào năm 1672, khi
chiến thuyền quân Trịnh rút lui, chúa Trịnh ra lệnh tha tất cả tù binh phe chúa
Nguyễn, lại cho quần áo, ai muốn đi đâu thì đi. Bởi vì đó là những người bị bắt đi lính, không
theo bên này thì phải theo phía kia, gần như ngoài ý muốn. Còn phía chúa Nguyễn
“Sau khi quân địch rút lui, phàm những quân lính Bắc Hà bị bắt, Hoàng tử Hiệp đều
sai cấp cho tiền gạo quần áo, tha cho về, không giết một người nào. Lại đặt một
lễ đàn trong thành Trấn Ninh tế tướng sĩ tử vong, cũng đặt một đàn ở ngoài
thành Trấn Ninh để tế quân Hà Bắc chết trận”. Người chết thuộc bên này hay bên
kia đều là dân nước Việt, tất cả đều xứng đáng giải oan sau cuộc “nồi da xáo thịt”.
Dòng
sông nào là giới tuyến thì dù hai trăm năm hay hai mươi năm, một chuyến đò
ngang cũng sẽ nối liền… Còn lòng người, lỡ cắt chia rồi thì phải bao lâu mới về
một mối?
Tuổi 37
Tôi
có vài chuyến đi dọc theo sông Thu Bồn ở xứ Quảng. Đây là một trung tâm quan trọng
của vương quốc cổ Champa. Trong công trình của giáo sư Trần Quốc Vượng về “Miền
Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa - một cái nhìn địa - văn hóa”, ông đã chỉ rõ
vai trò quan trọng của các con sông ở miền Trung trong sự phát triển của nhà nước
và văn minh Champa. Theo ông, mô hình một vùng văn hoá Chămpa được “quy hoạch”
theo một dòng sông thiêng. Quảng Nam là khu vực tiêu biểu cho mô hình này: theo
dòng sông thiêng Thu Bồn, thượng nguồn có núi thiêng là đỉnh Răng
mèo, thánh địa Mỹ Sơn, hạ lưu có thành Trà Kiệu và cửa sông là cảng
thị Đại Chiêm Hải khẩu (Hội An), Cù lao Chàm là tiền cảng. Văn minh
Champa phát triển rực rỡ chính là nhờ một hệ thống cảng thị nối liền sông – biển
– giao thương suốt mười mấy thế kỷ.
Lần
ấy sau khi khảo sát Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn, tôi đi xuôi dòng Thu Bồn
ra Cửa Đại. Hành trình này có đoạn đi thuyền trên sông, nhiều đoạn đi trên bờ ven
sông. Là con sông có lưu vực lớn, hàng năm sông Thu Bồn đã bồi đắp phù sa cho đồng
bằng Quảng Nam, một trong những đồng bằng lớn và trù phú nhất nước ta, tạo nên
sự giàu có của những làng xóm yên bình đẹp như tranh ở hai bên bờ sông. Theo sử
sách, thời chúa Nguyễn thuế nộp bằng lúa gạo từ xứ Quảng có thể cung cấp đủ cho
cả Bắc hà.
Trước
khi đổ ra biển, ven các nhánh sông nhỏ của Thu Bồn có nhiều làng nghề truyền thống
nay là những di sản văn hoá quý giá. Đó là các làng dệt xứ Quảng nổi tiếng khắp
nơi, là làng mộc Kim Bồng nơi có các thế hệ nghệ nhân đã có
đóng góp to lớn cho những kiến trúc nhà cổ ở Hội An và nhiều nơi khác, nhất là
phía Nam. Gần đó là làng gốm Thanh Hà - di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
với nét đặc sắc là sản phẩm từ nồi ơ đến bát đĩa, chén tô, bình bông... đều được
làm thủ công rồi nung trong lò cóc nhỏ gọn, mỗi lò có những sản phẩm riêng độc
đáo.
Nằm
ven sông Hoài là Hội An. Phố cổ “Di sản thế giới” là tổng hòa của những nét văn hóa độc đáo. Những ngôi
chùa, dãy nhà xưa với vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng đã tồn tại gần bốn trăm vòng
xuân hạ thu đông hòa hợp với
sự hồn hậu của con người Hội An… Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất từ thế kỷ 17 -18. Ngoài khơi Cù lao Chàm
đã khai quật được một tàu đắm chở gốm Chu Đậu của Việt Nam (thế kỷ 15,16) xuất khẩu
đi nước ngoài, trên “con đường gốm sứ” của thế giới đi qua biển Đông.
Có
thể coi sông Thu Bồn là “cái nôi” của hai Di sản thế giới. Nếu ở Thánh địa Mỹ
Sơn thời gian như ngừng lại thì Hội An, Cù lao Chàm cho đến nay cuộc sống vẫn
không ngừng phát triển.
Tuổi
57.
Sông
Đồng Nai đã sản
sinh và lưu giữ những trầm tích lịch sử, đồng thời kết nối
hệ thống di sản văn hoá của miền Đông Nam bộ.
Nhiều lần đi theo dấu chân những đoàn lưu dân
thời khẩn hoang từ cửa Cần Giờ vào vùng đất Gia Định xưa, tôi càng thấm
thía thế nào là “Nhà Bè nước chảy chia hai/Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”, mới
hiểu vì sao ông Thủ Huồng dựng nhà trên sông, để sẵn gạo nước cho ghe xuồng nghỉ
lại chờ nước ròng nước lớn. Sau này không hiểu sao chuyện Thủ Huồng có thêm đoạn
cuối giống
tích xưa “Mục
Kiền Liên cứu mẹ”, làm mất đi phong vị phóng khoáng của con người Nam bộ.
Lưu vực sông Đồng Nai là địa bàn của một nền
văn hoá phát triển mạnh mẽ từ 3.000 năm trước. Cư dân cổ trồng trọt, làm gốm,
buôn bán trao đổi từ thượng nguồn về hạ lưu và ra đến biển. Tại đây cũng tồn tại
một “vùng văn hoá” theo mô hình của GS Trần Quốc
Vượng: thượng nguồn Đồng Nai là Thánh địa Cát Tiên, vùng hạ lưu có thành Biên Hoà (thời Nguyễn) “được xây dựng
trên một thành Man”,
chắc hẳn là di tích thành cổ từ thời trước
đó,
ra đến cửa sông là cảng thị Cần Giờ có từ thời tiền sử. Và rất có thể Côn Đảo chính là một “tiền cảng”.
Vào thời Nguyễn quân đóng ở Côn Đảo thuộc
đạo Cần Giờ của Thành Gia Định.
Trên
sông Đồng Nai còn có
những địa danh nổi tiếng như Cù
lao Phố (Biên Hoà), một thương cảng giao dịch quốc tế của cả
vùng Gia Định hồi thế kỷ 17, 18. Cù
Lao Rùa (Bình Dương) là nơi tụ cư đông đúc, phong cảnh thanh bình, xóm làng trù
phú… Với lịch sử xa xưa và liên tục, Đồng Nai/Gia Định không phải là một “vùng đất mới” vì nơi đây đã từng có
những nền văn hoá rực rỡ.
Gần
đây, TP. Hồ Chí Minh chú ý đến việc phát triển đường sông và đôi bờ sông Sài
Gòn. Nhưng đừng quên, sông
Đồng Nai chảy đến Nhà Bè thì có thêm phụ lưu là sông Sài Gòn. Ngoài ra nó có
hai phân lưu là sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu là hai tuyến đường thuỷ chủ yếu
đi ra biển ở cửa Soài Rạp và cửa Cần Giờ. Vì vậy đối với vùng đất Sài Gòn, Gia Định, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đều có vai trò ý nghĩa quan trọng: là nguồn nước, là con đường
kết nối Sài Gòn với Đông và Tây Nam Bộ và xa hơn... Trong bối cảnh địa – văn hóa – kinh tế đó mới có thể khai
thác và phát triển “tài nguyên sông nước” phù hợp với quy luật “thông thương – thông thoáng – hướng biển” của Sài Gòn -
TP. Hồ Chí Minh.
***
Số
phận cho tôi sự may mắn khi được đi qua, đi theo nhiều dòng sông nổi tiếng từ Bắc
vào Nam. Sông Gianh với nỗi đau chia cắt trăm năm, sông Thu Bồn là dòng chảy của
một vùng văn hoá giao hoà Việt – Chăm độc đáo, sông Đồng Nai là nguồn lực của “vùng kinh tế trọng điểm” trong mọi
thời kỳ lịch sử của đất nước… Mỗi dòng sông đều là con đường xuyên thời gian lịch
sử, đều chứa đựng những di sản văn hoá quý giá, đều nối liền đôi bờ, hai miền
ngược xuôi, và cuối cùng “trăm sông đều ra biển cả”.
Một
đời người qua được mấy dòng sông… Những dòng sông đã trở thành ký ức không
phai, đã mang lại cho tôi biết bao tri thức, biết bao tình cảm. Và tôi mong đến
một ngày
nào đó, khi dòng sông đời tôi ngừng lại, tôi lại được hoà mình vào một dòng sông…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét