TIẾP CẬN BẢN CHUẨN ĐỊA ĐỒ GIA ĐỊNH HƠN 200 NĂM LƯU LẠC (Phạm Hoàng Quân)

 Địa đồ "Gia Định tỉnh" do Trần Văn Học soạn vẽ năm 1815 (địa đồ TVH) đã rất được biết đến. Tuy nhiên, các bản lưu hành từ trước tới nay đều là phiên bản không hoàn chỉnh, cho tới rất gần đây.

Địa danh chữ Hán Nôm ghi trên các bản đồ phiên bản tối đa chỉ 32 nơi, và nhiều sai sót. Vài năm trước, may mắn thay, Bảo tàng TP.HCM sưu tập được từ nguồn tư nhân bức địa đồ cùng tên, nội dung vượt xa các bản đã biết.

Tôi nhận định bức địa đồ này chín phần là địa đồ Gia Định do Trần Văn Học thực hiện, có thể là bản gốc, nên học giới có thể lấy làm bản chuẩn trong những nghiên cứu sắp tới.

Bài ở đây ạ
https://tuoitre.vn/tiep-can-ban-chuan-dia-do-gia-dinh-hon-200-nam-luu-lac-20240928072156312.htm?fbclid=IwY2xjawFnFHVleHRuA2FlbQIxMQABHUxKMf9QpWKFPS8OBuYYQOs4Pnp4uYe1IgjsvieKyKNWXIQHqKRLsF_UuQ_aem_6677V6qq_ztpGIf_QP68TQ

Trước khi bức địa đồ của Bảo tàng TP.HCM xuất hiện, địa đồ Gia Định tỉnh cơ bản có một số bản như sau:

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 2.

Tuy không phải xuất hiện sớm, nhưng được phổ biến rộng là bản đồ hỗn hợp địa danh tiếng Việt, in trong Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 1-Lịch sử (1987, tr.229).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 3.

Tạm gọi đây là Bản đồ hỗn hợp 1987 vì địa danh ghi trên đó vốn không phải chuyển dịch địa danh chữ Hán Nôm từ địa đồ TVH gốc, mà thâu thập địa danh chữ Latin từ Trương Vĩnh Ký và nhiều nguồn khác, có nhiều địa danh hành chánh không phù hợp.

Bản đồ hỗn hợp 1987 do đó chỉ có thể giúp tìm hiểu đại cương về địa danh, địa điểm ở địa bàn Sài Gòn thời Minh Mạng, chứ không thể hiện quan điểm của Trần Văn Học, không thể là nguồn tham cảo tin cậy về bối cảnh Sài Gòn năm 1815, do đó khó thể trích dẫn nếu đi sâu vào lãnh vực bản đồ học.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 4.

Sớm thấy trong nghiên cứu có thể dẫn trường hợp Louis Malleret, qua công trình Elements d’une Monographie des anciennes fortifications et Citadelles de Saigon (Bulletin de la Societe des Etudes Indochinoises, no. 4, 10-11/1935); và Les Anciennes Fortifications et Citadelles de Saigon (1674-1859) (Các thành cổ và công sự cũ ở Sài Gòn 1674-1859, Nhà in Nguyễn Văn Của, Sài Gòn, 1936).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 5.

Địa đồ “Gia Định tỉnh” do L. Malleret dẫn (1935 & 1936). Ảnh: Tư LIệU PHQ

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 6.

Bản đồ này địa danh chữ Hán-Nôm, không có lạc khoản (chữ Hán), chưa rõ ông dựa vào đâu để ghi chú (tiếng Pháp) thời điểm soạn vẽ.

Bản đồ cũng ghi đúng tên tác giả Trần Văn Học, và thời điểm soạn vẽ mùng 4 tháng 12 năm Gia Long thứ 14 (1815), ghi chú không ghi kích thước địa đồ.

Đây là bức địa đồ được sao chép (tạm gọi Phiên bản 1), đã bị cắt mất phần phía Đông (sông Sài Gòn, và bờ đông sông); không ghi địa danh, địa điểm nhiều nơi ở phía Bắc (lăng Bá Đa Lộc, lăng Duệ Tông, Hanh Thông xã, chợ Bến Cát…), và phía Tây (Gò Bình Hưng, Rạch Lao), đây cũng là tình trạng chung của các phiên bản.

Địa danh và địa điểm, ngoài mất đi do địa đồ bị cắt, phần còn lại cũng ghi thiếu rất nhiều, chỉ còn lại 32 địa danh (bằng 1/3 so với bản Bảo tàng TP.HCM).

Địa danh Nôm cũng viết sai và thiếu nhiều chỗ.

Chẳng hạn địa danh Gò Bàu Tròn và Gò Tân Định, với chữ Gò (ࡍ?) viết sai tự dạng (bộ thổ sai ra bộ ngọc, nhiều phiên bản sai cùng lỗi này).

Hai bên địa điểm "Trường Súng" thiếu 2 vị trí có ký chú "Mô súng đại bác" và "Mô súng cối" (các phiên bản đều không thể hiện và ký chú 2 vị trí này), thiếu sót này ảnh hưởng rất lớn đến tính hệ thống trong việc mô tả trận địa phòng thủ hay diễn tập mà Trần Văn Học lưu ý.

Đồn Rạch Bàng, Đồn Cá Trê trên các phiên bản đều chỉ vẽ ký hiệu mà không ghi tên. Những thiếu sót này trên địa đồ phiên bản hẳn sẽ hạn chế lớn việc phân tích của công trình Malleret.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 7.

Năm 1962, học giả Thái Văn Kiểm cho xuất bản chuyên khảo "Interpretation d'une carte ancienne de Saigon" trên Bulletin de la Societe des Etudes Indochinoises, n.s., 37, no. 4 (1962).

Phiên bản này, tạm gọi Phiên bản 2, ghi kích thước 27,3 x 38cm, cũng là bản sao chép không hoàn chỉnh, giống với bản Malleret.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 8.

Địa đồ Gia Định 1815 trong khảo cứu của thái Văn Kiểm. ảnh: tư liệu PhQ

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 9.

Có chỗ lấn cấn là trên địa đồ minh họa đếm thấy tổng cộng 33 địa danh (kể cả tiêu đề "Gia Định tỉnh"), nhưng bảng liệt kê kèm theo lại ghi 36 địa danh (Rạch Bến Chùa, Rạch Bến Chiếu, Rạch Bần không có viết tên Nôm trên địa đồ).

Sự so le giữa địa đồ minh họa với bảng địa danh đối chiếu cũng là một nghi vấn trong việc sử dụng các nguồn tư liệu trong khảo cứu của Thái Văn Kiểm.

Bảng đối chiếu còn có vài địa danh sắp chữ hay ký âm sai, như "Ngả tắt Mụ Chiểu" (tức Bà Chiểu), sai là "Ngả tắt Mụ Trị", do chữ Chiểu (沼) với chữ Trị (治) có tự hình gần giống, nên nhận lầm.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 10.

Kinh viện hơn, ta thấy Whitmore trong sách Lịch sử bản đồ học (1994) có dẫn hình ảnh và phân tích về bản đồ Gia Định tỉnh (The History of Cartography, Volume 2, Book 2, Chapter 12: Cartography in Vietnam. The University of Chicago Press, Chicago & London, 1994).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 11.

Bản đồ Gia Định Whitmore, trang 502, trích từ the history of cartography- Volume 2, Book 2, chapter 12. ảnh: tư liệu PhQ

Whitmore ghi chú dẫn bản đồ từ Thái Văn Kiểm (tạm gọi Phiên bản 2 bis).

Ở góc độ nghiên cứu bản đồ học, Whitmore nhận ra địa đồ TVH đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức và kỹ thuật.

Ông đọc được trên đó rằng "Các con đường lớn nhỏ và thành lũy có vẻ như rất chính xác, cùng những tòa nhà và ao hồ được thể hiện bằng ký hiệu đường viền quanh".

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 12.

Nhận định này dựa trên trực quan, Whitmore nhận thấy sự hợp lý về độ dài ngắn các cung đường trên tổng thể, hay cách dùng ký hiệu hình học để biểu thị nhà cửa phố xá (khác hẳn các địa đồ trước thường ước lệ và dùng ký hiệu tượng hình).

Nếu như Whitmore khảo sát đúng bản chuẩn, có lẽ sẽ đánh giá cao hơn nữa đối với địa đồ TVH, có lẽ là bức địa đồ Việt Nam đầu tiên áp dụng tỉ lệ xích theo quy cách địa đồ Tây phương.

Tóm lại, các phiên bản kể trên, được sử dụng trong nghiên cứu từ 1935 đến 1994, đều là những bản không toàn vẹn, đã được phổ biến rộng khắp.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 13.

Địa đồ hiện lưu tại Bảo tàng TP.HCM. Tiêu đề ghi "嘉定省" (Gia Định tỉnh), và dòng lạc khoản: "嘉隆十四年十二月初四日正監城欽奉掌奇臣陳文學奉畫地圖" (Gia Long thập tứ niên, thập nhị nguyệt, sơ tứ nhựt, Chánh giám thành Khâm phụng Chưởng cơ, thần Trần Văn Học phụng họa địa đồ) [Chánh giám thành, Chưởng cơ Trần Văn Học vâng mạng soạn vẽ địa đồ.

Ngày mùng 4 tháng 12 năm Gia Long thứ 14 (1815)].

Trong những phiên bản lưu hành trong học giới trước nay, chỉ thấy bản này đặc biệt ghi rõ lạc khoản, với thời điểm soạn vẽ và tên tác giả. Địa đồ có kích thước 50 x 31,5cm, trên Nam dưới Bắc, địa danh chữ Hán-Nôm, trên nền giấy.

Có thể tin đây là bản chuẩn.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 14.

Có thể 3 chữ "Gia Định tỉnh" là do nhân viên ở sử quán viết thêm vào sau năm 1832, lúc đã lập tỉnh Gia Định.

Có điểm cần lưu ý là, trên bản chuẩn này, tiêu đề và lạc khoản viết ngược 180 độ so với hệ thống địa danh, tức để đọc địa danh thì phải xoay ngược địa đồ.

Một lý do khác, để có thể hiểu vì sao Trần Văn Học không thể là người đề lên địa đồ 3 chữ "Gia Định trấn" hay "Gia Định tỉnh" là ông đương thời theo "Tây học", chắc hẳn nắm rõ địa bàn thể hiện trên địa đồ. Với phạm vi này, có thể hiểu đại khái ngày nay là "bản đồ nội thành Gia Định và phụ cận", chứ không thể là địa đồ cả tỉnh hay trấn Gia Định được.

Địa đồ TVH có hơn 80 địa danh, địa điểm, cho thêm rất nhiều thông tin, có thể cung cấp nhiều dữ liệu tốt trong nghiên cứu nhiều lãnh vực.

Với cá nhân tôi, tôi rất bất ngờ do trước đây cứ nghĩ J. L. Taberd là người đầu tiên ghi nhận địa điểm Holăng (Lăng Cha Cả), nay mới biết té ra Trần Văn Học đã vẽ rõ khuôn viên lăng và ký chú "Thiếu phó quan lăng", kế bên là khu lăng lớn hơn của Duệ Tông (Cựu Thượng hoàng lăng), ở phía bắc xã Hanh Thông (địa đồ chỉ ghi "Hanh Thông").

Một ví dụ khác: Trước đây nghiên cứu về đường Thiên lý Bắc Nam, tôi tham khảo nhiều nguồn mới biết con đường Bình Quới, giờ thấy địa đồ này vẽ rõ con đường, lại ký chú đủ địa điểm 3 nơi "Đò Đồng Cháy", "Rạch Đồng Cháy" và "Đồng Cháy quán".

Hay rất thú vị với tên "Ngả Tắt Lò Giấy", một tên rạch đã mất hẳn chưa thấy địa bạ hay sử chí nào nói đến, ứng với đoạn sông Bến Cát - Vàm Thuật khoảng chảy qua chỗ cầu Băng Ky.

Từ đó có thể suy đoán nơi này trước đây 200 năm từng có xóm nghề làm giấy nổi tiếng đến độ thành địa danh con rạch.

Về lịch sử hình thành các khu thị tứ, địa đồ này ghi tên "Thủ Thiêm thị" ngay bên bờ đông sông Sài Gòn (đối ngạn góc đường Tôn Đức Thắng), chợ này nằm giữa hai con rạch nhỏ, với ký hiệu hình học biểu thị nhiều khu nhà dọc bờ sông lớn về phía nam; và chợ Bến Cát (nay khoảng cuối đường Nguyễn Thái Sơn, gần bến đò Miếu Nổi) với ký hiệu nhà phố đăng đối liên tiếp và tản mát hai bên bờ rạch.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 15.

Địa lý môi trường và cảnh quang qua địa đồ TVH thật sinh động với sự thể hiện toàn vẹn khúc sông Sài Gòn ôm vòng phía đông thành Gia Định.

Thời điểm Trần Văn Học vẽ địa đồ, bên kia bến đò Đồng Cháy (Bình Quới) là địa bàn trấn Biên Hòa, việc diễn tả tổng thể phương diện hành chánh và quân sự địa bàn trung tâm trấn Gia Định không thể thiếu yếu tố giao thông, tức con đường cái quan huyết mạch về phía bắc, cho nên sông Sài Gòn cùng với bán đảo Thanh Đa là một bộ phận không thể tách rời.

Lạ thay, các phiên bản lại cắt mất không gian ấy. Vụ cắt xén này, nói vui một chút thì mấy tay làm phiên bản chỉ vì hà tiện một tấc giấy mà làm sai lệch ý đồ khái quát hóa rất hoàn chỉnh của Trần Văn Học.

Ai từng coi qua nhiều bản đồ do bộ phận do thám và quân đội Pháp thực hiện trong giai đoạn dòm ngó và tấn công thành Gia Định (1858-1861) sẽ thấy, về hiện trạng địa lý, nhiều bản đồ họ vẽ đều căn cứ nền địa đồ TVH, chỉ khác là thêm nhiều chi tiết về các địa điểm quân sự, và lược bớt nhiều yếu tố tự nhiên cùng các đối tượng thể hiện hình thái kinh tế.

Với mục đích quân sự, gắn liền với giao thông, các bản đồ Gia Định qua sự diễn tả của quân đội Pháp luôn thể hiện toàn vẹn khúc sông ôm vòng bán đảo Thanh Đa, với con đường bộ đi Biên Hòa.

Với địa đồ TVH bản chuẩn này, chúng ta thấy rõ được chân tích của một địa đồ quan trọng bậc nhứt trong lịch sử hình thành một thành phố tươi đẹp, ứng dụng khai thác nó cho điều mới mẻ và điều chỉnh những thiếu sót hoặc sai lầm trong những nghiên cứu trong 200 năm qua.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 16.

(*) Tác giả trân trọng cám ơn tiến sĩ Lương Chánh Tòng, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu và Bảo tàng TP.HCM đã chia sẻ bản chụp với chất lượng khá tốt bức địa đồ TVH bản chuẩn, để viết bài này.

 
PHẠM HOÀNG QUÂN

Đồng Nai quyết định giữ lại biệt thự trăm tuổi để bảo tồn

 

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai đã có chủ trương giữ lại biệt thự cổ trăm tuổi (nhà lầu ông Phủ) ở phường Bửu Long, TP Biên Hòa để làm bảo tồn.

Chiều 26-9, Văn phòng Tỉnh ủy Đồng Nai thông tin Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã có kết luận, cho chủ trương giữ lại công trình biệt thự trăm tuổi "nhà lầu ông Phủ" để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc. Nội dung này được đưa ra sau khi Tỉnh ủy Đồng Nai nghe các sở ngành báo cáo và cho ý kiến.

Tiếp đó, Tỉnh ủy Đồng Nai giao cho Ban Cán sự đảng UBND tỉnh Đồng Nai chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc của biệt thự trăm tuổi.  Đồng thời có giải pháp thi công tuyến đường ven sông Đồng Nai, bảo đảm các quy định của pháp luật.

Như vậy sau khi dư luận lên tiếng về việc giữ lại căn biệt thự trăm tuổi, tỉnh Đồng Nai đã tiếp thu, lắng nghe và quyết định giữ lại căn biệt thự trên.

Như Tuổi Trẻ Online đã thông tin, nhà lầu ông Phủ có kiến trúc Pháp, 100 năm tuổi.

Căn biệt thự của Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh xây dựng năm 1922, hoàn thành năm 1924, có cấu trúc tương tự tòa bố Biên Hòa và là tư gia lớn nhất tỉnh Biên Hòa thời bấy giờ, với vật liệu xây dựng toàn bộ đặt mua từ Pháp, được chở về bằng tàu biển.

Biệt thự này từng là bối cảnh quay bộ phim nổi tiếng Người đẹp Tây Đô vào năm 1996. Năm 2016, biệt thự này từng được chính quyền đưa vào danh mục di tích, nhưng người nhà của căn biệt thự từ chối.

Khi thành phố Biên Hòa làm dự án đường ven sông Đồng Nai, cơ quan chức năng định giá bồi thường ngôi biệt thự cổ này số tiền gần 5,4 tỉ đồng.

Qua khảo sát, cơ quan chức năng ghi nhận khu vực quy hoạch để thực hiện dự án sẽ "lấn" vào nhà lầu ông Phủ khoảng 9m, tương đương khoảng một nửa biệt thự này nằm trong phạm vi quy hoạch thực hiện dự án.

Sau khi dư luận lên tiếng, một số sở, ngành ở Đồng Nai có ý kiến nên mua luôn ngôi biệt thự trăm tuổi để có sự quản lý của Nhà nước và làm công tác bảo tồn.

https://tuoitre.vn/dong-nai-quyet-dinh-giu-lai-biet-thu-tram-tuoi-de-bao-ton-20240926174923835.htm

@ Biệt thự Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh ven sông Đồng Nai: Phá hủy công trình cổ là có lỗi với thế hệ sau

https://tuoitre.vn/biet-thu-doc-phu-su-vo-ha-thanh-ven-song-dong-nai-pha-huy-cong-trinh-co-la-co-loi-voi-the-he-sau-20240924083457681.htm

Liên quan căn biệt thự cổ của Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh (nhà lầu ông Phủ) nằm ven sông Đồng Nai có nguy cơ bị xóa sổ để làm đường, TS Nguyễn Thị Hậu - tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử TP.HCM - chia sẻ với Tuổi Trẻ quan điểm. Bà Hậu cho biết nhà cổ và biệt thự là công trình cư trú, một trong số chín loại hình di sản đô thị. Trong đó biệt thự là một trong những kiến trúc đặc trưng của đô thị.

Ngôi biệt thự cổ không có lỗi

Bà Hậu phân tích các đô thị ở Nam Bộ có khá nhiều biệt thự giống như biệt thự của Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh với tuổi đời trên dưới trăm năm.

Xét góc độ khảo cổ học, biệt thự này kiến trúc Đông Tây kết hợp. Bên ngoài (lầu, có mái, có vườn trước, vườn sau...) mang dáng dấp của biệt thự phương Tây.

Bên trong là nội thất bố trí phục vụ lối sống phương Đông, cụ thể là người Việt hoặc người Hoa, có tiềm lực về kinh tế. Nhà lầu ông Phủ cập nhật xu hướng kiến trúc mới, thuận tiện, bền vững, thỏa mãn được nhu cầu sinh hoạt của gia đình. Căn biệt thự này còn nằm trong không gian cảnh quan đô thị Biên Hòa xưa, tạo điểm nhấn cho một vùng, phản ánh nét văn hóa cởi mở, phù hợp lối sống mới.

Công trình có giá trị lịch sử vì tuổi đời vừa tròn 100 năm, nếu gắn với một số sự kiện hay nhân vật lịch sử thì giá trị lịch sử còn cao hơn. Chưa kể công trình còn có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật tương đối tiêu biểu cho loại hình biệt thự cổ ở Nam Bộ.

Theo bà Hậu, quan điểm di sản phải có tuổi đời ngàn năm hay vài trăm năm là chưa hợp lý. Bởi lẽ mỗi vùng đất có hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên không thể so sánh niên đại của di tích.

Bà Hậu nêu quan điểm nhà lầu ông Phủ hoàn toàn không có lỗi khi nằm trong phạm vi quy hoạch đường ven sông. Bởi vì nó hiện diện ở đó trước quy hoạch nên khi mở đường cơ quan chức năng cần "điều tra" về di sản. Có thể căn biệt thự này chưa được đưa vào kiểm kê di tích, di sản nhưng khi công luận phát hiện thì chính quyền cần xem xét, cân nhắc lại khi quy hoạch để không gây tổn hại, thậm chí xóa bỏ di tích lịch sử.

"Thường ở nhiều quốc gia chính quyền địa phương phải chỉnh sửa quy hoạch để có thể bảo tồn di tích. Việc điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp này, theo tôi không quá khó khăn, vấn đề là họ có muốn bảo tồn hay không", bà Hậu nói.

Nguồn vốn từ di sản sẽ rất bền vững

TS Nguyễn Thị Hậu kể bà từng đến biệt thự cổ của Đốc phủ sứ Võ Hà Thanh cách đây vài năm để khảo sát. Nếu công trình này bị phá bỏ thì không chỉ là sự tiếc nuối mà còn có lỗi với thế hệ mai sau, bởi không bảo tồn được những di sản do thế hệ trước để lại, góp phần làm giàu cho di sản văn hóa hiện nay.

Bà cho rằng không phải di sản nào cũng đáp ứng toàn bộ những tiêu chí công nhận là di tích. Trên thế giới, nhiều di sản chỉ cần đáp ứng được hai hoặc ba tiêu chí cũng được công nhận. Những biệt thự như nhà lầu ông Phủ có thể trở thành điểm nhấn văn hóa của tỉnh, của khu vực hoặc thậm chí đưa vào phát triển trong kinh tế di sản hay kinh tế du lịch. Công trình văn hóa này không thể thay thế được đối với giá trị lưu giữ ký ức bởi nếu không còn thì chắc chắn cộng đồng sẽ mất ký ức, thông tin lịch sử bị đứt gãy.

"Nếu muốn tái sử dụng ngôi nhà này để làm kinh tế di sản, du lịch thì chắc chắn phải đầu tư thêm. Nhưng nguồn vốn từ di sản sẽ được phát huy rất bền vững", bà Hậu nói và chia sẻ thêm: "Nếu di tích này chủ nhân vẫn sử dụng đúng chức năng thì di tích sẽ sống cùng với con người khi được con người sử dụng, tương tác thường xuyên. Nhà nước quản lý chắc chắn là không thể đưa ai vào sinh sống, di tích thành bảo tàng. Như thế giá trị sống của di tích giảm đi rất nhiều.

Nhà nước cũng không thể "ôm" mọi thứ để bảo tồn. Điều khả thi nhất là áp dụng chính sách xã hội hóa. Làm sao cho tư nhân nhìn nhận được giá trị, tạo điều kiện thuận lợi cho họ sinh sống, bảo tồn và kiếm lợi được từ di tích. Ở các nước tôi khảo sát, những di tích được tư nhân quản lý được ưu đãi về thuế. Bởi vì bảo tồn di tích là đóng góp rất lớn cho xã hội".



MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG

GIẢI BA CỦA CUỘC THI "CHUYỆN CỦA NHỮNG DÒNG SÔNG" DO BÁO VIETNAMNET TỔ CHỨC

MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG (Nguyễn Thị Hậu)

 Tuổi 17.

Một ngày tháng 5.1975. Chuyến xe đưa tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn phải dừng lại chờ phà rất lâu bên bờ Bắc sông Gianh trên đất Quảng Bình. Lúc ấy cảnh quan bến phà còn như thời chiến tranh, đường dẫn xuống phà lổn nhổn gạch đá, đất đỏ bụi mù, cây cối xơ xác… Đoàn xe đi “tiếp quản” miền Nam nối dài hàng cây số chờ qua phà. Chỉ có hai chiếc phà lừ đừ qua lại, người xe nhốn nháo cả ngày giữa nắng quái tháng năm đến suốt đêm. Trong bộ quần áo bộ đội, mũ cối trên đầu, gương mặt những công nhân lái phà cũng bạc ra vì mệt mỏi nhưng họ vẫn miệt mài làm việc.

Bến phà sông Gianh từng là trọng điểm đánh phá của đạn bom Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Địa danh này tôi được biết từ khi còn nhỏ. Khi ấy anh tôi là bộ đội đóng ở một binh trạm sửa chữa xe ở khu vực này, còn ba tôi cũng nhiều lần đi công tác qua đây. Vào khoảng năm 1967 trong một chuyến lưu diễn, khi vừa qua phà sông Gianh thì ba tôi phát hiện chiếc ví trong túi quần không còn nữa. Trong đó là toàn bộ giấy tờ của đoàn công tác, không biết rơi mất từ lúc nào, vì cả đoàn hành quân từ sáng sớm, qua bờ nam sông Gianh mới lên xe đi tiếp. Ba tôi quay lại bến phà, trình bày sự việc để được qua phà ngược về bờ Bắc (bảo vệ bến phà hỏi rất kỹ vì có trường hợp người đi lạc, hoặc đề phòng “B quay” – người đào ngũ). Ba tôi nghĩ là không thể tìm thấy chiếc ví nhỏ trên con đường nườm nượp quân đi, nếu rơi lúc lên xuống phà thì không còn hy vọng. Vậy mà như một phép màu, giữa đêm tối bụi mịt mờ, chỉ có ánh đèn pin nhỏ xíu mà ông nhìn thấy chiếc ví nằm trên một gốc cây bên đường, chắc chắn ai đó đã  lượm được và để đây cho người mất quay lại lấy. Ba tôi mừng đến rơi nước mắt…

Sau này lịch sử còn cho tôi biết, sông Gianh từng là nơi xảy ra nhiều trận chiến vô cùng ác liệt. Từ năm 1627 đến 1672 hai bên Trịnh–Nguyễn giao tranh liên tục ở vùng này. Tuy cùng lấy danh nghĩa "Phù Lê" nhưng sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến. Sông Gianh trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài trong hơn hai trăm năm sau đó.

Đại Nam liệt truyện kể rằng, sau trận chiến ác liệt kéo dài vào cuối vào năm 1672, khi chiến thuyền quân Trịnh rút lui, chúa Trịnh ra lệnh tha tất cả tù binh phe chúa Nguyễn, lại cho quần áo, ai muốn đi đâu thì đi.  Bởi vì đó là những người bị bắt đi lính, không theo bên này thì phải theo phía kia, gần như ngoài ý muốn. Còn phía chúa Nguyễn “Sau khi quân địch rút lui, phàm những quân lính Bắc Hà bị bắt, Hoàng tử Hiệp đều sai cấp cho tiền gạo quần áo, tha cho về, không giết một người nào. Lại đặt một lễ đàn trong thành Trấn Ninh tế tướng sĩ tử vong, cũng đặt một đàn ở ngoài thành Trấn Ninh để tế quân Hà Bắc chết trận”. Người chết thuộc bên này hay bên kia đều là dân nước Việt, tất cả đều xứng đáng giải oan sau cuộc “nồi da xáo thịt”.

Dòng sông nào là giới tuyến thì dù hai trăm năm hay hai mươi năm, một chuyến đò ngang cũng sẽ nối liền… Còn lòng người, lỡ cắt chia rồi thì phải bao lâu mới về một mối?

Tuổi 37

Tôi có vài chuyến đi dọc theo sông Thu Bồn ở xứ Quảng. Đây là một trung tâm quan trọng của vương quốc cổ Champa. Trong công trình của giáo sư Trần Quốc Vượng về “Miền Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa - một cái nhìn địa - văn hóa”, ông đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các con sông ở miền Trung trong sự phát triển của nhà nước và văn minh Champa. Theo ông, mô hình một vùng văn hoá Chămpa được “quy hoạch” theo một dòng sông thiêng. Quảng Nam là khu vực tiêu biểu cho mô hình này: theo dòng sông thiêng Thu Bồn, thượng nguồn có núi thiêng là đỉnh Răng mèo, thánh địa Mỹ Sơn, hạ lưu có thành Trà Kiệu và cửa sông là cảng thị Đại Chiêm Hải khẩu (Hội An), Cù lao Chàm là tiền cảng. Văn minh Champa phát triển rực rỡ chính là nhờ một hệ thống cảng thị nối liền sông – biển – giao thương suốt mười mấy thế kỷ.

Lần ấy sau khi khảo sát Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn, tôi đi xuôi dòng Thu Bồn ra Cửa Đại. Hành trình này có đoạn đi thuyền trên sông, nhiều đoạn đi trên bờ ven sông. Là con sông có lưu vực lớn, hàng năm sông Thu Bồn đã bồi đắp phù sa cho đồng bằng Quảng Nam, một trong những đồng bằng lớn và trù phú nhất nước ta, tạo nên sự giàu có của những làng xóm yên bình đẹp như tranh ở hai bên bờ sông. Theo sử sách, thời chúa Nguyễn thuế nộp bằng lúa gạo từ xứ Quảng có thể cung cấp đủ cho cả Bắc hà.

Trước khi đổ ra biển, ven các nhánh sông nhỏ của Thu Bồn có nhiều làng nghề truyền thống nay là những di sản văn hoá quý giá. Đó là các làng dệt xứ Quảng nổi tiếng khắp nơi, là làng mộc Kim Bồng nơi có các thế hệ nghệ nhân đã có đóng góp to lớn cho những kiến trúc nhà cổ ở Hội An và nhiều nơi khác, nhất là phía Nam. Gần đó là làng gốm Thanh Hà - di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia với nét đặc sắc là sản phẩm từ nồi ơ đến bát đĩa, chén tô, bình bông... đều được làm thủ công rồi nung trong lò cóc nhỏ gọn, mỗi lò có những sản phẩm riêng độc đáo.

Nằm ven sông Hoài là Hội An. Phố cổ “Di sản thế giới” là tổng hòa của những nét văn hóa độc đáo. Những ngôi chùa, dãy nhà xưa với vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng đã tồn tại gần bốn trăm vòng xuân hạ thu đông hòa hợp với sự hồn hậu của con người Hội An… Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất từ thế kỷ 17 -18. Ngoài khơi Cù lao Chàm đã khai quật được một tàu đắm chở gốm Chu Đậu của Việt Nam (thế kỷ 15,16) xuất khẩu đi nước ngoài, trên “con đường gốm sứ” của thế giới đi qua biển Đông.

Có thể coi sông Thu Bồn là “cái nôi” của hai Di sản thế giới. Nếu ở Thánh địa Mỹ Sơn thời gian như ngừng lại thì Hội An, Cù lao Chàm cho đến nay cuộc sống vẫn không ngừng phát triển.

Tuổi 57.

Sông Đồng Nai đã sản sinh và lưu giữ những trầm tích lịch sử, đồng thời kết nối hệ thống di sản văn hoá của miền Đông Nam bộ.

Nhiều lần đi theo dấu chân những đoàn lưu dân thời khẩn hoang từ cửa Cần Giờ vào vùng đất Gia Định xưa, tôi càng thấm thía thế nào là “Nhà Bè nước chảy chia hai/Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”, mới hiểu vì sao ông Thủ Huồng dựng nhà trên sông, để sẵn gạo nước cho ghe xuồng nghỉ lại chờ nước ròng nước lớn. Sau này không hiểu sao chuyện Thủ Huồng có thêm đoạn cuối giống tích xưa “Mục Kiền Liên cứu mẹ”, làm mất đi phong vị phóng khoáng của con người Nam bộ.

Lưu vực sông Đồng Nai là địa bàn của một nền văn hoá phát triển mạnh mẽ từ 3.000 năm trước. Cư dân cổ trồng trọt, làm gốm, buôn bán trao đổi từ thượng nguồn về hạ lưu và ra đến biển. Tại đây cũng tồn tại một “vùng văn hoá” theo mô hình của GS Trần Quốc Vượng: thượng nguồn Đồng Nai là Thánh địa Cát Tiên, vùng hạ lưu thành Biên Hoà (thời Nguyễn) “được xây dựng trên một thành Man”, chắc hẳn là di tích thành cổ từ thời trước đó, ra đến cửa sông là cảng thị Cần Giờ có từ thời tiền sử. Và rất có thể Côn Đảo chính là một “tiền cảng”. Vào thời Nguyễn quân đóng ở Côn Đảo thuộc đạo Cần Giờ của Thành Gia Định.

Trên sông Đồng Nai còn những địa danh nổi tiếng như Cù lao Phố (Biên Hoà), một thương cảng giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định hồi thế kỷ 17, 18.  Cù Lao Rùa (Bình Dương) là nơi tụ cư đông đúc, phong cảnh thanh bình, xóm làng trù phú… Với lịch sử xa xưa và liên tục, Đồng Nai/Gia Định không phải là một “vùng đất mới” vì nơi đây đã từng có những nền văn hoá rực rỡ.

Gần đây, TP. Hồ Chí Minh chú ý đến việc phát triển đường sông và đôi bờ sông Sài Gòn. Nhưng đừng quên, sông Đồng Nai chảy đến Nhà Bè thì có thêm phụ lưu là sông Sài Gòn. Ngoài ra nó có hai phân lưu là sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu là hai tuyến đường thuỷ chủ yếu đi ra biển ở cửa Soài Rạp và cửa Cần Giờ. Vì vậy đối với vùng đất Sài Gòn, Gia Định, sông Đồng Nai sông Sài Gòn đều có vai trò ý nghĩa quan trọng: là nguồn nước, là con đường kết nối Sài Gòn với Đông và Tây Nam Bộ và xa hơn... Trong bối cảnh địa – văn hóa – kinh tế đó mới có thể khai thác và phát triển “tài nguyên sông nước” phù hợp với quy luật “thông thương – thông thoáng – hướng biển” của Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh.

***

Số phận cho tôi sự may mắn khi được đi qua, đi theo nhiều dòng sông nổi tiếng từ Bắc vào Nam. Sông Gianh với nỗi đau chia cắt trăm năm, sông Thu Bồn là dòng chảy của một vùng văn hoá giao hoà Việt – Chăm độc đáo, sông Đồng Nai là nguồn lực của “vùng kinh tế trọng điểm” trong mọi thời kỳ lịch sử của đất nước… Mỗi dòng sông đều là con đường xuyên thời gian lịch sử, đều chứa đựng những di sản văn hoá quý giá, đều nối liền đôi bờ, hai miền ngược xuôi, và cuối cùng “trăm sông đều ra biển cả”.

Một đời người qua được mấy dòng sông… Những dòng sông đã trở thành ký ức không phai, đã mang lại cho tôi biết bao tri thức, biết bao tình cảm. Và tôi mong đến một ngày nào đó, khi dòng sông đời tôi ngừng lại, tôi lại được hoà mình vào một dòng sông…

Bài trên VNN:  https://vietnamnet.vn/chuyen-cua-nhung-dong-song-mot-doi-nguoi-qua-duoc-may-dong-song-2287799.html?fbclid=IwY2xjawFYQbRleHRuA2FlbQIxMAABHV-C9A8IttDuVWSpgZuA8-ZNIK00GrUKN70Ta5zJCWMPPM-kHdYf3jadAQ_aem_WPr45OdDeOPB5o3JXQFQuA








 

 

 

 

BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC

  Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...