MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG

MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG

Nguyễn Thị Hậu

 

Tuổi 17.

Một ngày tháng 5.1975. Chuyến xe đưa tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn phải dừng lại chờ phà rất lâu bên bờ Bắc sông Gianh trên đất Quảng Bình. Lúc ấy cảnh quan bến phà còn như thời chiến tranh, đường dẫn xuống phà lổn nhổn gạch đá, đất đỏ bụi mù, cây cối xơ xác… Đoàn xe đi “tiếp quản” miền Nam nối dài hàng cây số chờ qua phà. Chỉ có hai chiếc phà lừ đừ qua lại, người xe nhốn nháo cả ngày giữa nắng quái tháng năm đến suốt đêm. Trong bộ quần áo bộ đội, mũ cối trên đầu, gương mặt những công nhân lái phà cũng bạc ra vì mệt mỏi nhưng họ vẫn miệt mài làm việc.

Bến phà sông Gianh từng là trọng điểm đánh phá của đạn bom Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Địa danh này tôi được biết từ khi còn nhỏ. Khi ấy anh tôi là bộ đội đóng ở một binh trạm sửa chữa xe ở khu vực này, còn ba tôi cũng nhiều lần đi công tác qua đây. Vào khoảng năm 1967 trong một chuyến lưu diễn, khi vừa qua phà sông Gianh thì ba tôi phát hiện chiếc ví trong túi quần không còn nữa. Trong đó là toàn bộ giấy tờ của đoàn công tác, không biết rơi mất từ lúc nào, vì cả đoàn hành quân từ sáng sớm, qua bờ nam sông Gianh mới lên xe đi tiếp. Ba tôi quay lại bến phà, trình bày sự việc để được qua phà ngược về bờ Bắc (bảo vệ bến phà hỏi rất kỹ vì có trường hợp người đi lạc, hoặc đề phòng “B quay” – người đào ngũ). Ba tôi nghĩ là không thể tìm thấy chiếc ví nhỏ trên con đường nườm nượp quân đi, nếu rơi lúc lên xuống phà thì không còn hy vọng. Vậy mà như một phép màu, giữa đêm tối bụi mịt mờ, chỉ có ánh đèn pin nhỏ xíu mà ông nhìn thấy chiếc ví nằm trên một gốc cây bên đường, chắc chắn ai đó đã  lượm được và để đây cho người mất quay lại lấy. Ba tôi mừng đến rơi nước mắt…

Sau này lịch sử còn cho tôi biết, sông Gianh từng là nơi xảy ra nhiều trận chiến vô cùng ác liệt. Từ năm 1627 đến 1672 hai bên Trịnh–Nguyễn giao tranh liên tục ở vùng này. Tuy cùng lấy danh nghĩa "Phù Lê" nhưng sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến. Sông Gianh trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài trong hơn hai trăm năm sau đó.

Đại Nam liệt truyện kể rằng, sau trận chiến ác liệt kéo dài vào cuối vào năm 1672, khi chiến thuyền quân Trịnh rút lui, chúa Trịnh ra lệnh tha tất cả tù binh phe chúa Nguyễn, lại cho quần áo, ai muốn đi đâu thì đi.  Bởi vì đó là những người bị bắt đi lính, không theo bên này thì phải theo phía kia, gần như ngoài ý muốn. Còn phía chúa Nguyễn “Sau khi quân địch rút lui, phàm những quân lính Bắc Hà bị bắt, Hoàng tử Hiệp đều sai cấp cho tiền gạo quần áo, tha cho về, không giết một người nào. Lại đặt một lễ đàn trong thành Trấn Ninh tế tướng sĩ tử vong, cũng đặt một đàn ở ngoài thành Trấn Ninh để tế quân Hà Bắc chết trận”. Người chết thuộc bên này hay bên kia đều là dân nước Việt, tất cả đều xứng đáng giải oan sau cuộc “nồi da xáo thịt”.

Dòng sông nào là giới tuyến thì dù hai trăm năm hay hai mươi năm, một chuyến đò ngang cũng sẽ nối liền… Còn lòng người, lỡ cắt chia rồi thì phải bao lâu mới về một mối?

Tuổi 37

Tôi có vài chuyến đi dọc theo sông Thu Bồn ở xứ Quảng. Đây là một trung tâm quan trọng của vương quốc cổ Champa. Trong công trình của giáo sư Trần Quốc Vượng về “Miền Trung Việt Nam và văn hoá Chămpa - một cái nhìn địa - văn hóa”, ông đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các con sông ở miền Trung trong sự phát triển của nhà nước và văn minh Champa. Theo ông, mô hình một vùng văn hoá Chămpa được “quy hoạch” theo một dòng sông thiêng. Quảng Nam là khu vực tiêu biểu cho mô hình này: theo dòng sông thiêng Thu Bồn, thượng nguồn có núi thiêng là đỉnh Răng mèo, thánh địa Mỹ Sơn, hạ lưu có thành Trà Kiệu và cửa sông là cảng thị Đại Chiêm Hải khẩu (Hội An), Cù lao Chàm là tiền cảng. Văn minh Champa phát triển rực rỡ chính là nhờ một hệ thống cảng thị nối liền sông – biển – giao thương suốt mười mấy thế kỷ.

Lần ấy sau khi khảo sát Di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn, tôi đi xuôi dòng Thu Bồn ra Cửa Đại. Hành trình này có đoạn đi thuyền trên sông, nhiều đoạn đi trên bờ ven sông. Là con sông có lưu vực lớn, hàng năm sông Thu Bồn đã bồi đắp phù sa cho đồng bằng Quảng Nam, một trong những đồng bằng lớn và trù phú nhất nước ta, tạo nên sự giàu có của những làng xóm yên bình đẹp như tranh ở hai bên bờ sông. Theo sử sách, thời chúa Nguyễn thuế nộp bằng lúa gạo từ xứ Quảng có thể cung cấp đủ cho cả Bắc hà.

Trước khi đổ ra biển, ven các nhánh sông nhỏ của Thu Bồn có nhiều làng nghề truyền thống nay là những di sản văn hoá quý giá. Đó là các làng dệt xứ Quảng nổi tiếng khắp nơi, là làng mộc Kim Bồng nơi có các thế hệ nghệ nhân đã có đóng góp to lớn cho những kiến trúc nhà cổ ở Hội An và nhiều nơi khác, nhất là phía Nam. Gần đó là làng gốm Thanh Hà - di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia với nét đặc sắc là sản phẩm từ nồi ơ đến bát đĩa, chén tô, bình bông... đều được làm thủ công rồi nung trong lò cóc nhỏ gọn, mỗi lò có những sản phẩm riêng độc đáo.

Nằm ven sông Hoài là Hội An. Phố cổ “Di sản thế giới” là tổng hòa của những nét văn hóa độc đáo. Những ngôi chùa, dãy nhà xưa với vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng đã tồn tại gần bốn trăm vòng xuân hạ thu đông hòa hợp với sự hồn hậu của con người Hội An… Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất từ thế kỷ 17 -18. Ngoài khơi Cù lao Chàm đã khai quật được một tàu đắm chở gốm Chu Đậu của Việt Nam (thế kỷ 15,16) xuất khẩu đi nước ngoài, trên “con đường gốm sứ” của thế giới đi qua biển Đông.

Có thể coi sông Thu Bồn là “cái nôi” của hai Di sản thế giới. Nếu ở Thánh địa Mỹ Sơn thời gian như ngừng lại thì Hội An, Cù lao Chàm cho đến nay cuộc sống vẫn không ngừng phát triển.

Tuổi 57.

Sông Đồng Nai đã sản sinh và lưu giữ những trầm tích lịch sử, đồng thời kết nối hệ thống di sản văn hoá của miền Đông Nam bộ.

Nhiều lần đi theo dấu chân những đoàn lưu dân thời khẩn hoang từ cửa Cần Giờ vào vùng đất Gia Định xưa, tôi càng thấm thía thế nào là “Nhà Bè nước chảy chia hai/Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về”, mới hiểu vì sao ông Thủ Huồng dựng nhà trên sông, để sẵn gạo nước cho ghe xuồng nghỉ lại chờ nước ròng nước lớn. Sau này không hiểu sao chuyện Thủ Huồng có thêm đoạn cuối giống tích xưa “Mục Kiền Liên cứu mẹ”, làm mất đi phong vị phóng khoáng của con người Nam bộ.

Lưu vực sông Đồng Nai là địa bàn của một nền văn hoá phát triển mạnh mẽ từ 3.000 năm trước. Cư dân cổ trồng trọt, làm gốm, buôn bán trao đổi từ thượng nguồn về hạ lưu và ra đến biển. Tại đây cũng tồn tại một “vùng văn hoá” theo mô hình của GS Trần Quốc Vượng: thượng nguồn Đồng Nai là Thánh địa Cát Tiên, vùng hạ lưu thành Biên Hoà (thời Nguyễn) “được xây dựng trên một thành Man”, chắc hẳn là di tích thành cổ từ thời trước đó, ra đến cửa sông là cảng thị Cần Giờ có từ thời tiền sử. Và rất có thể Côn Đảo chính là một “tiền cảng”. Vào thời Nguyễn quân đóng ở Côn Đảo thuộc đạo Cần Giờ của Thành Gia Định.

Trên sông Đồng Nai còn những địa danh nổi tiếng như Cù lao Phố (Biên Hoà), một thương cảng giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định hồi thế kỷ 17, 18.  Cù Lao Rùa (Bình Dương) là nơi tụ cư đông đúc, phong cảnh thanh bình, xóm làng trù phú… Với lịch sử xa xưa và liên tục, Đồng Nai/Gia Định không phải là một “vùng đất mới” vì nơi đây đã từng có những nền văn hoá rực rỡ.

Gần đây, TP. Hồ Chí Minh chú ý đến việc phát triển đường sông và đôi bờ sông Sài Gòn. Nhưng đừng quên, sông Đồng Nai chảy đến Nhà Bè thì có thêm phụ lưu là sông Sài Gòn. Ngoài ra nó có hai phân lưu là sông Soài Rạp và sông Lòng Tàu là hai tuyến đường thuỷ chủ yếu đi ra biển ở cửa Soài Rạp và cửa Cần Giờ. Vì vậy đối với vùng đất Sài Gòn, Gia Định, sông Đồng Nai sông Sài Gòn đều có vai trò ý nghĩa quan trọng: là nguồn nước, là con đường kết nối Sài Gòn với Đông và Tây Nam Bộ và xa hơn... Trong bối cảnh địa – văn hóa – kinh tế đó mới có thể khai thác và phát triển “tài nguyên sông nước” phù hợp với quy luật “thông thương – thông thoáng – hướng biển” của Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh.

***

Số phận cho tôi sự may mắn khi được đi qua, đi theo nhiều dòng sông nổi tiếng từ Bắc vào Nam. Sông Gianh với nỗi đau chia cắt trăm năm, sông Thu Bồn là dòng chảy của một vùng văn hoá giao hoà Việt – Chăm độc đáo, sông Đồng Nai là nguồn lực của “vùng kinh tế trọng điểm” trong mọi thời kỳ lịch sử của đất nước… Mỗi dòng sông đều là con đường xuyên thời gian lịch sử, đều chứa đựng những di sản văn hoá quý giá, đều nối liền đôi bờ, hai miền ngược xuôi, và cuối cùng “trăm sông đều ra biển cả”.

Một đời người qua được mấy dòng sông… Những dòng sông đã trở thành ký ức không phai, đã mang lại cho tôi biết bao tri thức, biết bao tình cảm. Và tôi mong đến một ngày nào đó, khi dòng sông đời tôi ngừng lại, tôi lại được hoà mình vào một dòng sông…

Bài trên VNN:  https://vietnamnet.vn/chuyen-cua-nhung-dong-song-mot-doi-nguoi-qua-duoc-may-dong-song-2287799.html?fbclid=IwY2xjawFYQbRleHRuA2FlbQIxMAABHV-C9A8IttDuVWSpgZuA8-ZNIK00GrUKN70Ta5zJCWMPPM-kHdYf3jadAQ_aem_WPr45OdDeOPB5o3JXQFQuA









 


 

 

 

 

 

Ký ức lũ lụt


Hồi gia đình tôi mới tập kết ra miền Bắc, ở Hà Nội nhà tôi ở khu tập thể bờ sông phía ngoài đê. Dãy nhà cấp 4 vách tre đan trát vữa chia làm nhiều gian, mỗi gia đình một gian. Năm nào cũng chạy lụt, má tôi ôm chị em tôi chạy vào ở nhờ mấy nhà trên phố, còn anh Hai tôi và anh Hai của họa sĩ Nguyễn Thanh Bình thì ở lại trông nhà. Nói là trông nhà nhưng tài sản có gì đâu, chỉ là để nếu nước có tràn vào nhà thì lo ôm đồ nồi niêu xong chảo mà chạy.
Lần nào chạy lụt về má tôi cũng thấy mấy chai nước mắm hũ mỡ, thùng gạo hết sạch, nhưng tiền để cho hai anh mua đồ ăn thì còn nguyên. Hỏi, hai anh nói: trời mưa lạnh nấu cơm nóng ăn với mỡ và nước mắm ngon rồi, không cần gì nữa. Hai ông anh đâu biết, mỡ và nước mắm ấy là tiêu chuẩn của mấy tháng má tôi để dành ăn dần 😊
***
Hổi đi sơ tán tôi về Hà Tây. Xã Chu Minh (nơi có đình Chu Quyến nổi tiếng) có một đoạn đê dài (chả nhớ đê của sông gì: sông Hồng? Sông Thao?) chạy qua. Đê cao, vững chãi, trên đê có con đường nhỏ do đi bộ, đi xe đạp mãi mà thành. Bờ đê khá dốc có lớp cỏ xanh rì, thế nhưng mỗi khi trời mưa chị tôi đi học qua đây thế nào cũng bị “vổ ếch” bẩn hết quần áo. Có đoạn dưới chân đê rậm rạp đám cây điền thanh, muồng muỗng gì đó, hoa vàng nhỏ xíu mùi hơi hắc, quyến rũ đám bướm đủ màu sắc lượn lờ. Chiều mùa hè lên đê gió mát lộng, bọn trẻ thả diều hay nằm ở vệ đê học bài như cuốc kêu, hoặc tìm cỏ gà ngồi chơi chọi gà... Tôi hay ra đây đón hai chị đi học ở trường cấp 3 bên xã Tiên Phong về (xã Tiên Phong lại là vùng đồi đá ong, mùa hè nóng bỏng chân, mọc toàn cây Ráng – một loại dương xỉ - người bên xã Chu Minh hay qua đó cắt về đun bếp).
Tôi cũng hay lang thang trên bờ đê đi đến đoạn có cái bến của đò dọc, đò ngang, nhìn ngắm những con đò và người qua lại... Vào những ngày cuối xuân đầu hè, thỉnh thoảng có thuyền ghé vào bến bán cá mòi. Ghé vào bờ họ quạt than nướng cá mòi, đàn ông mua ăn ngay, chấm muối ớt và uống rượu, đàn bà mua về kho khô với nghệ, cá mòi kho khô ăn cơm với rau muống luộc nước vắt chanh thì ngon thôi rồi… Mùa nước lũ, từ bờ đê có thể nhìn thấy rất nhiều chiếc thuyền đi vớt “củi rều” từ thượng nguồn trôi về. Đàn ông đàn bà đều chèo thuyền bằng hai chân, còn hai tay thoắn thoắt vớt củi, họ khéo léo tránh được những cây gỗ lớn hay bè tre trôi trên sông. Chỉ một lúc thuyền đã đầy cành cây lớn nhỏ.
Có năm nước mấp mé mặt đê, dân làng suốt ngày “hộ đê”, bọn trẻ ở nhà tha hồ nghịch ngợm. Đến bữa nấu cơm mang ra cho bố mẹ đang ở ngoài đê, chờ bố mẹ ăn vội vàng miếng cơm rồi mang nồi niêu về nhà. Có hôm chưa xong bữa tiếng trống đã vang lên thùng thùng báo hiệu nước lên... bọn trẻ bị người lớn giục đuổi vội vã chạy nhanh về nhà để ôm sẵn quần áo đồ đạc gọn nhẹ, đề phòng nước tràn đê hay nhỡ vỡ đê thì chạy. Nhưng tôi không nhớ là sẽ chạy đi đâu, vì chưa phải chạy lần nào.
***
Mùa hè 1971. Mỹ dừng ném bom miền bắc. Tôi về Hà Nội đúng những ngày căng thẳng vì trận lụt lớn các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đe dọa vỡ đê sông Hồng ở Hà Nội. Năm ấy ba tôi đi chiến trường, nhà chỉ còn hai má con. Má tôi trực ở cơ quan (ngân hàng Hoàn Kiếm trên phố Lê Lai, đối diện vườn hoa có tượng cụ Lê Thái Tổ bây giờ). Vài ba ngày mới chạy về nhà xem xét đồ đạc đã chuẩn bị cho tôi “chạy lụt”. Khu tập thể đã phổ biến, khi nào nghe tiếng kẻng 3 hồi dồn dập như thế như thế... thì nhanh chóng chạy ngay lên dãy nhà 4 tầng là trường học (cả khu có 1 dãy nhà 4 tầng này), mỗi người chỉ được mang 1 balo quần áo và 1 túi đựng thực phẩm, vì rất đông người, sợ không đủ chỗ...
Má về các cô chú xúm lại hỏi thăm ngoài đê thế nào. Má tôi thở dài nói nước lớn lắm, ngồi trên đê khoát nước rửa mặt được...
Theo vikipedia, trận lụt đồng bằng sông Hồng năm 1971 (hay còn được biết đến với tên gọi Đại hồng thủy 1971) là một đợt lũ lụt rất lớn xảy ra ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng vào giữa tháng 8 năm 1971. Do chịu tác động của một tổ hợp thời tiết nguy hiểm nên ở khu vực trên đã xuất hiện các trận mưa lớn, gây vỡ đê và khiến lũ trên các sông lên nhanh, nhiều khu vực đạt tới mức báo động 3. Theo số liệu thống kê thì đã có 594 người thiệt mạng, ngoài ra đã có 20 xã, hay 1 huyện bị ngập hoàn toàn (nhưng chưa rõ tên xã huyện nào) với tổng dân số trong những xã đó bị ngập mất nhà cửa vào khoảng 100.000 người. Về tài sản, trận lụt gây thiệt hại về tài sản khoảng 70 triệu đồng theo thời giá bấy giờ (tương đương khoảng 14 nghìn tỷ đồng bây giờ). Ngoài ra, thiệt hại của nhân dân và các địa phương bị ảnh hưởng từ lũ lụt, dịch bệnh, ngừng trệ sản xuất sau mưa lũ là rất lớn không thể thống kê được.
Đây được xem là trận lũ lụt lớn nhất trong vòng 250 năm qua ở miền Bắc Việt Nam, trong 100 năm qua ở vùng đồng bằng sông Hồng và nó đã đi vào ký ức không thể xóa nhòa của rất nhiều người dân sinh sống tại khu vực này. Trận lũ lụt được một cơ quan thời tiết của Hoa Kỳ xếp là một trong những thiên tai lớn nhất của thế kỷ 20, và mức độ thảm khốc do nó gây ra chỉ đứng sau trận lụt trên sông Dương Tử ở Trung Quốc làm hàng triệu người chết xảy ra năm 1931. Một số nguồn thông tin khác, đi xa hơn, còn xếp trận lũ lụt lịch sử tại đồng bằng sông Hồng này vào danh sách 10 trận lũ lụt tồi tệ nhất trong lịch sử lũ lụt thế giới.
***
Năm nay những ngày tháng 9 này tang thương do bão và lũ lụt lại đang bao trùm miền Bắc... Đau lòng vì những tai họa đã từng xảy ra lại tiếp tục xảy ra như lũ quét, như nước dâng nhanh do mưa, do xả lũ... Thiên tai thì khó tránh nhưng sao khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại mà vẫn khó lường, khó cảnh báo, khó đề phòng? Và hầu như vẫn khó giảm thiểu hậu quả nặng nề...

Lịch sử Nam Bộ nhìn từ một gia đình (Nguyễn Thị Hậu giới thiệu)

https://cuoituan.tuoitre.vn/lich-su-nam-bo-nhin-tu-mot-gia-dinh-20240828110356847.htm?fbclid=IwY2xjawFLDhpleHRuA2FlbQIxMQABHepIleyk7lhx3kg62rfzVYeBsUU3RQkJTxg0XRFehZdUKfiZznfnrQQXcw_aem_2dfWw_a7rk--aEhzsErU2A&zarsrc=30&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo

Lưu niên ký sự là tên chữ mà tác giả gọi cuốn sổ Biên việc hằng năm của mình. Bắt đầu từ năm 1823 là năm sanh của ông nội mình, tác giả thuật lại theo ký ức của ông nội và ba về lịch sử dòng họ và về những điều mắt thấy tai nghe của lớp người trước. Đến năm 1926, khi được 43 tuổi, ông Nguyễn Trinh Tường bắt đầu biên chép theo sự từng trải của mình, ký sự dừng ở năm 1940.

Ông Tường là người mần ruộng ở Cù lao Giêng, việc hằng năm chỉ cày bừa gieo gặt chớ có gì đâu. Nhưng không phải vậy, tập biên chép này đặc biệt hấp dẫn và đặc biệt độc đáo ở nhiều chỗ. Đây là một tập tư liệu sử do một nông dân viết, rất khó đụng hàng, bởi thông tin về nghề nông cùng với xã hội nông nghiệp của một thời được nói cụ thể, chi tiết, toàn là những chuyện mà sử gia văn phòng với sử quan cung đình bó tay.

Một miền Tây Nam Kỳ sinh hoạt đời thường, ngoài nghề mần ruộng, các vụ hương chức hội tề, đấu đá kèo xanh kèo vàng, buôn bán, đi lại, ăn chơi, cờ bạc các kiểu, như hiện ra trước mắt ta qua va chạm trực tiếp của tác giả. Đọc tập ký sự như gặp một cuộc đời bình dị mà trải nghiệm đủ thứ, như bản hợp âm của những ông già mang tánh cách Nam Kỳ đã sắp thành truyền thuyết rồi.

Phạm Hoàng Quân


Khoảng tháng 10-1975, lần đầu tiên gia đình tôi tập hợp khá đông đủ tại Sài Gòn, đó là ngày giỗ ông nội của tôi. Trong dịp đó, chú Tám tôi đã tặng lại mỗi nhà một bộ tư liệu ông nội để lại, gồm cuốn gia phả Lịch sử gia đình và tập ghi chép Lưu niên ký sự. 

Hai tư liệu này chú tôi cất giữ từ những năm 1950, sau đó sao lưu làm nhiều bản đề phòng thất lạc do chiến tranh, và cũng để gửi lại các gia đình "để biết gốc gác bà con" như tâm nguyện của ông nội tôi lúc sinh thời. Đây là kỷ vật của gia đình, ba tôi đã giao cho tôi (là đời thứ 7) trách nhiệm lưu giữ hai tư liệu này.

Ông nội tôi tên Nguyễn Trinh Tường (tự Nguyễn Văn Bảy), sinh năm 1881 tại làng Mỹ Chánh trên Cù lao Giêng, nay là xã Mỹ Hiệp, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, trong một gia đình nông dân. Tuy gia đình nghèo nhưng nhiều đời có truyền thống chăm lo việc chung của làng xã, được làng xã tín nhiệm, bà con quý mến. Ông tôi tham gia vài chức vụ nhỏ của làng, hành xử mọi việc với tấm lòng ngay thẳng, cương trực.

Ông tôi có hai người vợ: bà thứ nhất là Nguyễn Thị Sung, thân mẫu của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (con trai thứ ba), Anh hùng lao động. Nguyên phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên bộ trưởng Bộ Y tế nước VNDCCH. 

Bà bị bệnh mất khi ông Hưởng còn nhỏ tuổi. Ông nội cưới người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Lượm, sinh thêm ba người con trai: ông Nguyễn Văn Bá (thứ tư), ông Nguyễn Ngọc Bạch (thứ bảy) và ông Nguyễn Thừa Nghiệp (thứ tám). Ông bà nội tôi cũng có mấy người con gái nhưng đều mất khi còn nhỏ.

Năm 1947, ông nội tôi bị giặc bắn chết tại Cù lao Giêng, sau khi chúng tra khảo bắt ông phải gọi hai người con đi kháng chiến (là bác Ba và ba tôi) về đầu thú nhưng không được. Sau đó bà nội tôi theo gia đình lên sinh sống ở Sài Gòn và mất năm 1963. Sau năm 1954, bác Ba và ba tôi tập kết ra Bắc, còn bác Tư và chú Tám tôi ở lại hoạt động trong phong trào đô thị.

Công trình gia phả Lịch sử gia đình là bản đánh máy một mặt có 64 tờ (cả bìa) trên khổ giấy A4 được nhân ra 100 bản vào ngày 3-9-1969. Trang đầu của tập tài liệu có "Bức thơ ngỏ" nhân một cuộc họp gia đình tại Sài Gòn ngày 25-5-1969: "Vì bản này chỉ có một bản chánh do tác giả dày công sưu tầm và viết ra, nên nhân một ngày giỗ ông bà, chúng tôi đã bàn với nhau và có đồng ý là nên sao ra nhiều bản để được nhiều người trong gia tộc giữ, hầu tránh sự thất lạc một tài liệu di tích chung. Việc làm đó cũng phù hạp với sở nguyện của tác giả đã được tỏ bày trong tập Lịch sử gia đình. Chúng tôi chỉ làm một công việc nhỏ là sao y bản chính, sửa lại ít chữ cho đúng chính tả, còn sự ghi chép các sự kiện (có thể đúng hay sai) cùng là sự nhận xét hay phê phán (có thể khách quan hay chủ quan) đều là của tác giả, mà chúng tôi xin trân trọng nguyên văn".

Tập ghi chép Lưu niên ký sự là bản photo trên khổ A4 gồm 94 trang (không kể bìa). Trang đầu ghi rõ Lưu niên ký sự tập I từ 1890 đến 14.11.1935. Chữ viết tay chủ yếu là chữ quốc ngữ có xen chữ Hán, chữ Pháp. Được photo làm bốn bản cho bốn người con trai. Bản gốc do gia đình chú tôi là ông Nguyễn Thừa Nghiệp lưu giữ. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài gia đình di chuyển nhiều nơi, việc bảo quản khó khăn bên hai bản tài liệu viết tay không còn nguyên vẹn.

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 2.

Hình bìa của hai tập tư liệu

Tác giả Nguyễn Trinh Tường biên chép tài liệu này gồm hai phần: Kính lục sự tích và Gia phả. Ông đã tìm kiếm và biết được từ đời thứ nhất là ông thỉ tổ Nguyễn Văn Ngải (và bà Cao Thị Ly) đến đời ông là đời thứ 5, các con ông là đời thứ 6. Trong "Lời nói đầu" của tác giả, tập Lịch sử gia đình nêu rõ mục đích như sau:

"Nhiều nhà nhóm thành họ, nhiều họ nhóm thành nước. Mà muốn hiểu biết việc đời dĩ vãng, thì nước phải có quốc sử, họ phải có thế phổ, nhà phải có gia phổ, đặng biên chép những việc cổ vãng và kiêm lai. Biên chép đặng biết mà chi? Có hai lẽ:

1/ Nước cho biết loài dân mà ái quần ái chủng, họ và nhà cho biết tông chi liên lạc mà thương yêu giòng họ, cũng như cây có nhánh phải biết gốc, nước có giòng chảy phải biết có nguồn. Một mai mà rễ của gốc mục thì nhánh phải héo, nguồn ruỗi cạn thì giòng chảy phải khô.

2/ Nước biết những lịch triều vương đế, họ biết những thế hệ tổ tiên, lớp trước làm bởi thế nào, mà ra đời phải thạnh suy, tồn vong, bĩ thới. Biết mà chi? Nước phải biết lớp trước để làm gương đặng sửa sang chánh trị cho bền vững giang san, họ và nhà cho biết lớp trước làm gương mà cư xửa cho tấn hóa gia đình. Nếu người đáng gương tốt thì chúng ta học đòi bắt chước, nếu người cho là gương xấu thì ta giữ lòng chừa cải. Nếu không quốc sử không thế phổ thì sao? Nếu nước không quốc sử sẽ lần lượt đến tiệt chủng, nhà không thế phổ thì thân thích phải chia lìa. Rồi ra, loài dân thì giất lẫn nhau, thân thích thì kiện cáo nhau không biết nguồn biết gốc. Bởi cớ, nên nhà phải có thế phổ, cho biết mà thương yêu nhau, giữ gìn nhau, dạy bảo nhau, đời đời cho ra dòng hiếu tử, rồi hiệp lại thành nước thì ra giúp nước mới có mặt trung thần, vậy có đáng lập gia phổ chăng? Tôi xin trả lời đáng lắm".

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 5.

Phong cảnh đồng quê Nam Kỳ, khoảng 1687-1868. Ảnh: JOHN THOMSON

Ông cũng nêu rõ quan niệm ghi chép gia phả: "Mà sự lập quốc sử hay là thế phổ là chỉ muốn trải trên mặt tờ giấy những sự thiệt, mà làm một bức ảnh cho đời sau soi chung. Nên chi dòng Thái sử gặp vua hôn dầu chém giết cũng cứ cầm viết biên ngay, như là việc tùy Vương đế thí phụ tự lập, Kiệt, Trụ, U, Lệ gương xấu Võ, Thang, Văn, Võ gương tốt, cũng phô lên.

Nay tôi muốn học đòi, xin cáo lỗi cùng người trên kẻ dưới dẫu ai có hẹp lòng buộc lỗi thì tôi cam chịu tội.

Tôi nghĩ một cái thân ta có tứ chi mà không trọn, huống chi họ ta cả trăm ngàn mà không người tốt kẻ xấu, nếu đồng nhau thì tạo hóa bất công, vì tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình, cái bánh xe luôn hồi phải vậy".

Về phương pháp ghi ghép, ông nêu "Từng thứ nhất từ thỉ tổ đến ba đời làm căn bản. Từng thứ hai đời thứ 3 làm gốc sanh ra đời thứ 4, thứ 5 và thứ 6. Từng này chia ra 9 cái tông chi cho dễ xem. Rồi lần lượt kể sự tích của mỗi đời, mỗi người, kể tới đời thứ 5 (là đời của tác giả). Sự lập tông chi tới 5 đời phải dứt ra một đoạn. Tôi lấy làm ao ước đời sau mỗi chi (trong 9 chi nầy) cứ gốc ông Thỉ tổ biên đại khái theo nhánh của mình mà đi roi xuống đời đời đừng cho dứt, thì lấy làm thỏa cái sở nguyện của tôi vô cùng".

Phần Kính lục sự tích ông bà các đời, ông ghi chép ngắn gọn các nội dung: tên ông, tên bà (có mấy vợ cũng ghi hết). Nguồn gốc từ đâu, đến nơi nào sinh sống, khái quát gia cảnh, có mấy người con, tên (không biết cũng ghi rõ là không biết), số con cũng như tên họ con trai và con gái. Những sự kiện chính. Mất năm nào, mộ ở đâu, ngày giỗ... Tuy ngắn gọn nhưng đầy đủ và đặc biệt chân dung cá nhân hiện lên khá rõ ràng.

Lịch sử nam bộ nhìn từ một gia đình - Ảnh 4.

Quán vỉa hè, Sài Gòn, những năm 1920. Ảnh: FERNAND NADAL

Cũng có một số người không có ghi chép gì. Theo lời kể của ba má tôi, trong những năm trước 1945, ông nội tôi đạp xe (loại bánh đặc) đi khắp lục tỉnh, thậm chí đi tàu sang tận Nam Vang (Phnom Penh) để tìm bà con... Tuy nhiên có nhiều chuyến đi không tìm được ai hoặc không tìm ra tung tích một người nào đó.

Theo ghi chép của ông, thì "Thỉ tổ sanh vào thế kỷ 18 ở vào Quy Nhơn hay Nghệ An chưa rõ, vì nghe lời truyền thất thố chưa chắc được". Điều này khá phù hợp với lịch sử chung của vùng đất Nam Bộ "300 năm" dân cư chủ yếu đến từ Ngũ Quảng, có gốc gác từ vùng Thanh - Nghệ.

Phần Gia phả được ông ghi chép khoa học, rõ ràng, dễ hiễu, dễ tra cứu. Gồm 6 đời (tác giả là đời thứ 5, các con là đời thứ 6) sắp xếp theo chữ cái từ A đến F. Mỗi người thêm số phía sau. Tổng số tác giả ghi chép được: Đời thứ Nhất: A = 1 người; Đời thứ Hai: B = 6 người; Đời thứ Ba: C = 14 người; Đời thứ Tư: D = 37 người; Đời thứ Năm: E = 121 người; Đời thứ Sáu: F = 353 người.

Theo đó có thể hình dung chính xác, ví dụ đời thứ Nhất: A1 = ông Nguyễn Văn Ngải (bà Cao Thị Lý), có 6 người con từ B1 đến B6 và 14 người cháu từ C1 đến C14. Đời thứ Hai: B1: Nguyễn Văn Nhiên (Thị Nhàng ngươn phối) có 8 người con từ C1 đến C8 và có 33 người cháu từ D1 đến D33. Đời thứ Hai B2... B6: tương tự vậy.

Như vậy mỗi đời đều có thể nhận biết từ ông bà đến con và cháu, cho thấy sự liên hệ lịch đại và huyết thống chặt chẽ. Giữa những người cùng một đời (B, C hay D...) cũng dễ dàng tìm thấy quan hệ trên (đời ông bà) hay dưới (con, cháu) của mình. Hoặc từ thế hệ sau có thể tìm ra mối liên hệ huyết thống của thế hệ trước (tìm bà con nguồn gốc)...

Đặc biệt trong gia phả, tác giả ghi đầy đủ trong mỗi gia đình có các con gái lấy chồng ở đâu, làm gì, mất năm nào. Tương tự với các con dâu cũng vậy. Đây là điều hiếm có trong gia phả của nhiều dòng họ gia đình thời bấy giờ. Tập hợp những hoàn cảnh, gia đình này, ta có thể hình dung bối cảnh xã hội, lịch sử một giai đoạn khá dài.

Ở góc độ "văn bản học", tôi tin rằng đây là một công trình có giá trị về văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết... phản ánh xã hội những năm cuối thế kỷ 19 đến khoảng 1940 của vùng đất Cù lao Giêng nói riêng và cả Nam Bộ nói chung. Trong những năm gần đây, nhiều gia đình dòng họ đã quan tâm đến việc tìm hiểu và ghi chép gia phả. Đây cũng là một xu hướng mới trong nghiên cứu lịch sử, khi nguồn sử liệu được các nhà sử học quan tâm đến từ tài liệu của các gia đình, dòng họ. Đồng thời trong xã hội việc thu thập và nghiên cứu "sử kể" (Oral history) cũng phổ biến hơn. Tất cả nhằm mang lại cho lịch sử cái nhìn toàn diện, phong phú, đa dạng và khách quan.

Gia đình chúng tôi mong sớm có điều kiện để xuất bản những tư liệu quý này, góp thêm tài liệu nghiên cứu con người - dòng họ - lịch sử - văn hóa Nam Bộ.

[Đọc lược trích Lưu niên ký sự tại đây]

Tập Lưu niên ký sự ông Nguyễn Trinh Tường ghi chép về cuộc đời mình từ thơ ấu (từ 1890) đến cuối năm 1935. Có thể coi là một cuốn hồi ký chân thực về gia đình, cá nhân và một số sự kiện xã hội tác động đến hoàn cảnh gia đình.

Qua Lưu niên ký sự hiện ra chân dung của một con người rất thật thà, siêng làm lụng, thương yêu vợ con rất mực và cũng rất người, nghĩa là cũng có những lúc sa ngã, yếu lòng. Không tự tô vẽ, làm đẹp chân dung mình, ông không ngại nói đến những thói hư tật xấu của ông bà mình, không ngại nói về những vấp ngã của đời mình, mục đích trước là để nhắc nhở mình, sau là để răn dạy con cháu. Gọi là "lưu niên ký sự" vì đây không phải là nhật ký ghi lại hằng ngày mà ông ghi lại hằng năm, nhưng vẫn rất cụ thể.

Không chỉ là những ghi chép về một cuộc đời riêng, Lưu niên ký sự còn cung cấp cho chúng ta nhiều tư liệu quý, rất cụ thể về lịch sử, xã hội, phong tục tập quán, văn học dân gian… của Nam Bộ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, từ những biến cố lịch sử trong thời kỳ đó đến cách ăn mặc, tục cưới hỏi, các điệu hò…

Về văn phong, mặc dù được viết cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nhưng Lưu niên ký sự khá hiện đại, ngắn gọn, chịu ảnh hưởng của ngữ pháp phương Tây khá rõ, hầu như không chịu ảnh hưởng của văn chương biền ngẫu thời đó. Ông dùng khá nhiều phương ngữ, có từ nay không còn dùng nữa, nhưng đặt trong văn cảnh vẫn có thể dễ dàng hiểu được.

Đọc Lưu niên ký sự thấy trong đó có một tấm lòng của tác giả đối với quê hương bản quán. Chưa làm được những việc lớn, ông đã cống hiến cho xã hội bằng những việc cụ thể, từ việc xây trường học để học sinh có chỗ học hành gần nhà đến làm cầu, sửa đường cho nhân dân đi lại dễ dàng. Vì vậy chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy cụ sinh ra những người con biết hy sinh cuộc sống thành đạt, phong lưu của riêng mình để cống hiến khi đất nước lâm nguy.

PGS.TS Võ Văn Nhơn (Đại học KHXHNV TPHCM)

MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG

MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG Nguyễn Thị Hậu   Tuổi 17. Một ngày tháng 5.1975. Chuyến xe đưa tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn phải d...