MỘT CUỐN SÁCH THÚ VỊ VÀ HỮU ÍCH


Gần đây giới nghiên cứu và những người yêu thích tìm hiểu về chữ viết – một thành tố quan trọng của văn hóa VN - đã vui mừng đón nhận công trình "Lịch sử ngữ pháp và chữ viết dùng chữ cái Latinh của tiếng Việt từ 1615 đến 1919" của Tiến sĩ Phạm Thị Kiều Ly được bảo vệ tại Đại học Sorbonne nouvelle, Pháp năm 2018. Từ công trình này TS Phạm Thị Kiều Ly cùng họa sĩ Tạ Huy Long đã cho ra đời cuốn sách dành cho thanh - thiếu niên Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” (tháng 4.2023).

Đây là cuốn tranh truyện bán hư cấu kể lại câu chuyện hình thành chữ quốc ngữ, thông qua hành trình của một số nhà truyền giáo tại Việt Nam. Các sự kiện trong cuốn sách được lựa chọn từ cơ sở tư liệu xác đáng, sắp xếp trong ba phần: Đắc Lộ ký sự, Chữ quốc ngữ ký sự và Phụ lục. Thông qua cấu trúc các phần nội dung, cuốn sách dẫn dắt người đọc theo dõi quá trình hình thành chữ quốc ngữ trong bối cảnh lịch sử - xã hội thời bấy giờ.

 Phần I là truyện tranh về cuộc đời Alexandre de Rhodes, nhưng qua đó người đọc có thể hình dung được một cách cụ thể một hiện tượng lịch sử mà không nhiều người Việt quan tâm và hiểu biết, đó là là quá trình du nhập Công giáo vào Việt Nam. Phần II trình bày khái quát nhưng đầy đủ các sự kiện của quá trình hình thành chữ quốc ngữ dưới dạng thông tin ngắn gọn cho từng vấn đề (như các câu hỏi và câu trả lời). Phần III Phụ lục rất thú vị, ngoài những thông tin bổ sung cho nội dung sách toàn diện hơn còn có phần “talk show” giả định giữa hiện tại và quá khứ, với 3 nhà truyền giáo ở thế kỷ 17 có vai trò quan trọng trong sự hình thành chữ quốc ngữ.

Bằng ngôn từ giản dị, dễ hiểu nhưng thể hiện quan điểm khoa học rõ ràng, cuốn sách giúp người đọc nhận thức tính lịch sử, tính khoa học của sự hình thành chữ quốc ngữ, vai trò của chữ quốc ngữ tại thời điểm nó ra đời và giá trị lâu dài của thành tựu văn hóa này. Cuốn sách không chỉ dành cho thiếu nhi, mà cả người lớn cũng thu nhận được nhiều thông tin hữu ích, khách quan.

***

Chữ quốc ngữ là chữ viết chung của cả nước. Trải qua gần một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt. Từ khi giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, các triều đại phong kiến nước ta đã mượn chữ Hán (còn gọi là chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật nhưng chữ Nho chưa bao giờ có vai trò và được phổ biến như chữ quốc ngữ. Từ thế kỷ 13 người Việt dựa trên chữ Hán để làm ra chữ Nôm nên muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán. Vì vậy cả chữ Hán và chữ Nôm đều không thể phổ biến trong dân chúng, do đó ít được sử dụng.

Cuốn sách “Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” kể lại một cách vắn tắt hành trình truyền giáo các giáo sĩ phương Tây từ thế kỷ 16 đến Đông Nam Á và Việt Nam (thời đó là Đàng Ngoài và Đàng Trong). Khi truyền đạo, các giáo sĩ cần phải biết ngôn ngữ bản địa, sau đó cần có kinh sách để giảng giải. Vì vậy, để truyền đạo cho người Việt, các giáo sĩ phải học tiếng Việt. Từ nhu cầu đó một số giáo sĩ đã ký âm thẳng tiếng Việt bằng mẫu tự la-tinh, rồi dùng thứ chữ mới ký âm này dạy cho nhau nói tiếng Việt. Sau đó tổ chức biên soạn từ điển và in kinh thánh, giáo lý bằng loại chữ mới này.

Thông qua cuộc đời của Alexandre de Rhodes và hoạt động của những người “bề trên, tu huynh” của ông, từ góc độ lịch sử văn hóa, người đọc thấy được quá trình sáng tạo ra chữ quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây, trong đó có Alexandre de Rhodes. Bên cạnh đó là sự đóng góp thầm lặng của nhiều người Việt cùng thời. Sự ra đời của các công trình được in ấn bằng “chữ Việt” đầu tiên như Từ điển Việt – Bồ - La, Phép giảng tám ngày đã mang lại cho Alexandre de Rhodes vị trí đặc biệt trong quá trình này.

Có thể nói, tgiữa thế kỷ 17 trở đi, nhờ dễ sử dụng bằng cách ghép chữ thành vần nên loại chữ mới bằng mẫu tự Latin phổ biến hơn trong giới truyền giáo và phục vụ nhà thờ. Chữ quốc ngữ phát triển dựa trên nền tảng tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu và đẹp, phong phú, linh hoạt và biểu cảm. Từ nửa sau thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 với vai trò tiên phong của các nhà văn hóa, trí thức người Việt, cùng với sự xuất hiện nhiều thành tố văn hóa mới: báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật, in ấn và xuất bản... chữ quốc ngữ càng có điều kiện phát triển rộng khắp, đồng thời tác động trở lại làm cho “văn viết” và “văn nói” của tiếng Việt ngày càng hoàn thiện.

Từ sau 1945, bằng phong trào “bình dân học vụ” phần lớn dân chúng trước đây “mù chữ” đã biết đọc biết viết. Ngôn ngữ, văn hóa nhiều vùng miền đi vào chữ viết càng làm cho chữ quốc ngữ phong phú và tinh tế, nhiều sắc thái và giàu đẹp hơn. Từ đó chữ quốc ngữ có ý nghĩa thúc đẩy văn hóa phát triển (văn chương, giáo dục, khoa học kỹ thuật...) và hội nhập với thế giới.

***

Năm 2018 tôi có dịp đến thành phố Isfahan - thủ đô của Ba Tư từ năm 1598 đến năm 1722 và là một trong bốn trung tâm kinh tế - văn hóa lớn của Iran. Từ nhiều thế kỷ trước Isfahan được coi là một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới. Hiện nay, Isfahan là thành phố có kiến trúc hiện đại bên cạnh nhiều kiến trúc cổ được bảo tồn rất tốt. Nơi đây có một nghĩa địa lớn, tại đó có phần mộ của Alexandre de Rhodes. Đúng ngày 5.11.2018 - ngày giỗ lần thứ 358 của (5.11.1660) chúng tôi đến viếng và khánh thành bia tri ân tại mộ của Ngài. Giữa nghĩa địa rộng lớn và thoáng đãng như một công viên lớn, hơn 350 năm qua ngôi mộ giản dị của Cha Đắc Lộ nằm đây, đánh dấu bằng một phiến đá lớn có khắc tên Ngài và được chăm sóc chu đáo như tất cả những ngôi mộ xung quanh.

Tại TP. Hồ Chí Minh, từ trước năm 1975 đến nay vẫn có một con đường nhỏ mang tên  Alexandre de Rhodes, con đường rợp bóng cây xanh kế bên công viên trung tâm thành phố. Đối diện bên kia cũng có một con đường nhỏ xinh như vậy mang tên Hàn Thuyên, người được cổ sử ghi nhận là giỏi thơ Nôm và có công với chữ Nôm của Việt Nam. Hành trình chữ viết là một trong những hành trình đi vào văn minh của nhân loại. Nhờ công lao của bao vị tiền nhân, bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, đất nước ta đã được tham dự vào một đoạn đường quan trọng của hành trình ấy.

Công trình của TS Phạm Thị Kiều Ly và cuốn sách “Người Việt gọi tôi là Cha Đắc Lộ - Hành trình sáng tạo chữ Quốc ngữ” đã “phục dựng” quá trình hình thành chữ quốc ngữ một cách khoa học trong bối cảnh lịch sử - xã hội cụ thể, qua đó nhìn nhận vai trò của các nhà truyền giáo và minh định sự đóng góp của những người quan trọng nhất. Điều này giúp cho người đọc, nhất là những người trẻ, có thể tiếp cận lịch sử - văn hóa một cách khách quan.

 

TP. Hồ Chí Minh, 24.5.2023

Xin cảm ơn tác giả TS Phạm Thị Kiều Ly và Omega Plus Books đã gửi tặng sách quý mới xuất bản ❤







 

ĐIỂM TỰA ĐỂ NINH BÌNH XÂY DỰNG “ĐÔ THỊ DI SẢN”



Cùng với xu thế phát triển đô thị trên thế giới là hướng đến mô hình đô thị có hàm lượng văn hóa cao, có đời sống đô thị giầu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành, có nhịp sống hợp lý, làm giàu bằng kinh tế trí thức. Trong thời gian sắp tới thành phố Ninh Bình và huyện Hoa Lư sẽ được hợp nhất để trở thành Thành phố Hoa Lư. Dựa trên tiềm năng về thiên nhiên - văn hóa - lịch sử của mình, tỉnh Ninh Bình đề ra mục tiêu xây dựng thành phố Hoa Lư là đô thị di sản thiên niên kỷ tiêu biểu. Sự tiếp cận từ địa – văn hoá tìm hiểu các đặc trưng về lịch sử - văn hóa của sẽ góp phần cung cấp luận cứ khoa học thực tiễn cho định hướng tỉnh Ninh Bình phát triển bền vững.

Tính chất ranh giới, chuyển tiếp của địa hình tự nhiênlịch sử

          Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Vị trí này “quy định” cho Ninh Bình tính chất là nơi ranh giới mà không đứt gãy, lại mang tính chất chuyển tiếp của các loại địa hình. Nằm ở một đỉnh trên đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình ba loại địa hình chính.

Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía Tây Bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Trong đó khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An.

Vùng đồng bằng: là vùng đất rộng nhất của tỉnh, nơi tập trung dân cư đông đúc nhất chiếm khoảng 90% dân số toàn tỉnh. Đây là yếu tố quan trọng để xếp Ninh Bình nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Vùng ven biển: Ninh Bình có trên 15km bờ biển, là tỉnh có chiều dài bờ biển ngắn nhất Việt Nam nhưng hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Như vậy, Ninh Bình có đủ loại địa hình: núi, rừng, thung lũng, đồng bằng, sông, suối, hồ, biển, đảo. Tính chất chuyển tiếp từ địa hình này sang địa hình khác tạo nên sự đa dạng và phong phú của cảnh quan tự nhiên, đặc biệt là có nhiều thắng cảnh nổi tiếng. Đồng thời cũng tạo ra nhiều tài nguyên tự nhiên: núi đá vôi, rừng, biển, các loại đất, hệ thống sông, suối phân bố rộng khắp trong toàn tỉnh. Không gian tự nhiên này là cơ sở của không gian văn hoá Ninh Bình.

Hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Ninh Bình dày đặc, liên tục về niên đại. Tuy nhiên có thể nhận thấy những di tích quan trọng vì mang ý nghĩa đánh dấu sự chuyển tiếp đặc biệt trong quá trình lịch sử của đất nước. Đó là một số cột mốc sau.

Thời tiền sử trong khu vực hang động núi đá vôi các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số di tích thuộc sơ kỳ đồ đá cũ; di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình sơ kỳ đá mới. Thời sơ kỳ kim khí với di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô), sau đó là nhiều di tích thuộc Văn hoá Đông Sơn hậu kỳ kim khí.

Thế kỷ X “giai đoạn bắt đầu chuyển mình” chính quyền buổi đầu độc lập đã được xây dựng theo hướng “trung ương tập quyền” để có thể giải quyết tình hình bất ổn của xã hội do sự đấu tranh giữa các yếu tố tập trung và phân tán, tình trạng xung đột giữa các thủ lĩnh địa phương đe dọa nền độc lập. Trong giai đoạn này nổi lên sự thành công sáng chói các dòng họ mang nhiều dáng dấp thủ lĩnh địa phương: họ Khúc, họ Ngô, họ Đinh và họ Lê, nhưng chính quyền của họ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Trong bối cảnh đó, vùng đất Ninh Bình trở thành trung tâm của các sự kiện lịch sử vì mang ba ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Thời gian khởi đầu của nền tự chủ: với chiến thắng bạch Đằng năm 938 mở ra thời kỳ độc lập, hay có thể từ trước đó, năm 905 Khúc Thừa Dụ tổ chức một chính quyền tự trị và hệ thống hành chính của người bản địa. Ninh Bình là nơi mà nền độc lập này được hiện thực hóa cụ thể: Đinh Tiên hoàng đế và nước Đại Cồ Việt. 

 Thời kỳ chuyển hoá từ mô hình địa phương rời rạc lên mô hình nhà nước tập quyền: nhà nước Đại Cồ Việt. Đinh Bộ Lĩnh đã chiến thắng các “sứ quân” và xu hướng cát cứ cục bộ địa phương, thành lập một nhà nước tập quyền, làm nền móng cho một quốc gia tự chủ từ đó đến ngày nay.

Sự hiện diện của văn hóa Phật giáo trong hệ thống chính trị mới. Vai trò của nhà sư Khuông Việt như một cố vấn chính trị trong thời Đinh và Tiền Lê; dấu tích còn lại là những cột kinh Phật mà ngày nay trở thành tài liệu quan trọng để  làm tài liệu để nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ X và sự phát triển sau đó.

Ba ý nghĩa đó tập trung trong khu vực kinh đô Hoa Lư, bắt đầu từ vua Đinh Tiên Hoàng, gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba Triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử. Không chỉ vậy, thế kỷ X và vùng đất Ninh Bình còn có sự xuất hiện của nhân vật lịch sử Dương Vân Nga. Có thể coi sự kiện Thái hậu Dương Vân Nga trao quyền bính cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn vừa mang giá trị phổ quát của lịch sử vừa thể hiện giá trị về giới trong văn hóa Việt Nam.

Tính chất vừa MỞ vừa ĐÓNG của tự nhiên, của văn hoá

Vị hoàng đế đầu tiên của nước Việt thống nhất đã xây dựng kinh đô Hoa Lư dựa trên địa thế hiểm trở, tận dụng điều kiện tự nhiên của thung lũng với các vách núi đá vôi làm thành quách vững chắc, hệ thống sông hồ hào sâu hiểm trở. Kinh đô Hoa Lư là một "quân thành" phòng ngự vững chắc, vừa tiết kiệm sức người và của lại vừa đảm bảo đối phó tối ưu về quân sự. Nhưng từ vị trí này Mở ra tầm nhìn từ Hoa Lư đến Đại La - như Chiếu dời đô đã nhận định “ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Từ đó Lý Công Uẩn quyết định dời đô để muôn đời sau có Kinh thành Thăng Long.

Tính chất Mở và Đóng còn thể hiện ở hệ thống sông và đèo. Sông Hoàng Long là con sông gắn với những truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ được rồng vàng cõng qua sông chạy thoát khỏi sự truy đuổi của người chú, có một nhánh là sông Sào Khê  mà theo dân gian, bến sông này là nơi Lý Công Uẩn hạ chiếu dời đô để xuống thuyền tiến về Thăng Long.

Đèo Tam Điệp ranh giới giữa Ninh Bình và Thanh Hóa (xưa là ranh giới Giao Châu và Ái Châu), còn gọi là đèo Ba Dội theo tên Nôm. Đầu thế kỷ X, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền đã dựa vào sự hiểm trở của Tam Điệp để xây dựng và bảo vệ lực lượng ở Thanh Hóa, rồi tiến ra đánh bại quân xâm lược Nam Hán ở thành Đại La (năm 931) và sông Bạch Đằng (năm 938). Phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn của Ngô Thì Nhậm vào cuối năm 1788 đã góp phần quan trọng trong đại thắng quân Thanh của Quang Trung Nguyễn Huệ.

Thế kỷ XIX. Biển không là sự ngăn cản mà là cánh cửa mở rộng của vùng đất Ninh Bình. Năm 1829, huyện Kim Sơn đã được Triều đình nhà Nguyễn thành lập sau công cuộc khai hoang lấn biển của nhà doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Hiện nay kinh tế biển đóng vai trò quan trọng ở Ninh Bình. Vùng đất đồng bằng mới ở Ninh Bình có những giá trị đa dạng sinh học nổi bật toàn cầu đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Ninh Bình còn được biết đến với vai trò trung tâm của Công Giáo ở Việt Nam với Giáo phận Phát Diệm và rất nhiều nhà thờ Công giáo. Thế kỷ XVI - XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Thiên chúa giáo Phát Diệm. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông.

Tính chất đa dạng, hoà hợp của con người với tự nhiên, của các cộng đồng dân cư với nhau

Theo GS Trần Quốc Vượng, “văn hoá trước hết là thế ứng xử của con người với môi trường tự nhiên”. Nhưng “văn hoá một khi đã hình thành, cũng là môi trường sống của con người. Nếu môi trường tự nhiên và môi trường xã hội là điều kiện hình thành và phát triển của môi trường văn hoá thì ngược lại môi trường văn hoá một khi đã xuất hiện lại góp phần rất lớn trong việc tạo ra thế ứng xử và lối ứng xử của con người trong việc không ngừng cải thiện môi trường tự nhiên và môi trường xã hội”.

Danh thắng hỗn hợp Tràng An là một địa danh du lịch tổng hợp gồm các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận ở Ninh Bình. Nhiều di tích danh thắng nơi đây đã được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư... Đây là khu vực điển hình cho tính chất đa dạng nhưng hòa hợp của điều kiện tự nhiên ở Ninh Bình, điển hình cho cảnh quan nhân văn bằng việc đưa những công trình mới vào cảnh quan tự nhiên và cảnh quan lịch sử. Tại đây cộng đồng dân cư đã sống cùng di sản,bảo vệ và phát triển di sản… từ đó phát triển sinh kế mới là nông nghiệp và dịch vụ du lịch.

Hệ thống di tích và lễ hội ở Ninh Bình vô cùng phong phú, đa dạng. Có đến gần 2000 di tích các loại hình, có đến 3 Di tích quốc gia đặc biệt, 1 di sản thei6n nhiên văn hoá thế giới, hàng trăm di tích quốc gia và cấp tỉnh… Ngoài các kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh, các di tích ở Ninh Bình nổi bật lên với tín ngưỡng thờ Vua, thờ Thánh, thờ Thần và chiếm số lượng lớn di tích liên quan đến hai Triều đại nhà Đinh - Tiền Lê. Đồng thời, có thể coi Ninh Bình là vùng Di sản công giáo vì lịch sử lâu đời, mật độ dày đặc các nhà thờ và lối sống, văn hóa của cộng đồng công giáo đặc trưng, góp phần cho sự đa dạng văn hóa của tỉnh và của đất nước.

Từ hiện tượng nhân vật lịch sử Thái hậu Dương Vân Nga không thể không nhận thấy tính dung hợp văn hoá đặc sắc. Cùng một hành động chính trị, cùng một hành xử mang tính cá nhân nhưng từ hai góc nhìn dân gian và “chính thống” sẽ có đánh giá khác nhau do quan niệm khác nhau. Việc dân gian thờ bà cùng hai vua cũng như sự “thể tất” thấu hiểu những ứng xử của bà trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt biểu hiện truyền thống mẫu hệ/”tính nữ” bản địa – coi trọng phụ nữ, phụ nữ có vai trò quyết định khi cần thiết... Trong những thế kỷ về sau truyền thuyết về Dương Vân Nga và việc thờ cúng bà vẫn tồn tại lâu dài ở Ninh Bình, như một sự phản kháng của văn hoá dân gian với tư tưởng Nho Giáo chính thống trong nhà nước phong kiến Đại Việt.

Từ những yếu tố tự nhiên – lịch sử - văn hoá trên có thể nhận thấy 3 ADN tạo nên bản sắc Ninh Bình.

-       Tính chuyển tiếp của địa hình tự nhiên và lịch sử

-       Tính kết nối linh hoạt của tự nhiên, văn hóa

-       Tính đa dạng, hòa hợp của cộng đồng dân cư

ADN là những yếu tố quyết định bản sắc, phản ánh tiến trình lịch sử - văn hóa của một vùng đất, một cộng đồng. AND văn hoá có tính di truyền nhưng cũng có tính phát triển và biến đổi văn hoá. Do vậy, trong quá trình lịch sử những ADN ngày càng được củng cố bền vững. Nếu ADN bị thay thế tất yếu dẫn đến mất bản sắc “ta không còn là ta”. Do đó, ba ADN của Ninh Bình là những điều kiện cơ bản, là cơ sở lịch sử - xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình nói chung, đồng thời giảm thiểu và tránh được những nguy làm tổn hại và phá hủy di sản văn hóa vật thể, phi vật thể.

Thương hiệu “đô thị di sản” mang lại danh dự, uy tín và cả cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Theo GS. KTS Hoàng Đạo Kính “Đô thị di sản là một chỉnh thể lịch sử đặc trưng, một sản phẩm của nền văn minh đô thị, kết hợp hữu cơ các thành tố vật chất và tinh thần, kiến trúc và văn hóa, trong sự hòa quyện với thiên nhiên, là xuất phát điểm chi phối tất thảy”. Khi Ninh Bình xây dựng “đô thị di sản thiên niên kỷ” thì chắc chắn quá trình đô thị hoá sẽ diễn ra nhanh hơn, tăng cao nguy cơ khai thác không đúng cách, quá mức các tài nguyên bản địa (tự nhiên, văn hóa).

 Trong bối cảnh xã hội mới, nhận rõ bản sắc truyền thống là cách thức đảm bảo cho quá trình phát triển đồng thời với bảo tồn di sản, tài nguyên. Nghiên cứu chuyển biến và tích hợp những ADN lịch sử - văn hóa vào xây dựng Đô thị thiên niên kỷ, chắc chắn Ninh Bình sẽ bào toàn và phát triển một di sản độc đáo và bền vững.

TP. Hồ Chí Minh ngày 9.6.2024

 Nguyễn Thị Hậu

 https://nguoidothi.net.vn/diem-tua-de-ninh-binh-xay-dung-do-thi-di-san-44143.html?zarsrc=31&utm_source=zalo&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTEAAR2O8rJNcjlbkNAbA-sLnhXkfAJ_vx83z5Cj5gmWE2vaJn8DKojod3DX0jY_aem_1yEa0ChZ2_qKsN98HZY06g

Trải nghiệm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên

 Hôm qua mình được NAG Minh Hòa rủ đi trải nghiệm Metro tuyến Bến Thành – Suối Tiên. Từ năm 2021 mình đến khảo sát khu vực đang xây dựng nhà ga trung tâm Bến Thành, sau đó đi bộ theo đường hầm từ ga Nhà hát thành phố đến ga Ba Son... Nay trở lại Nhà ga trung tâm Bến Thành đã khá hoàn thiện, đặc biệt khu vực tầng mái toplight luôn hiện lên những hoa văn rất đẹp dưới ánh sáng mặt trời (mà sao nhiều nơi trang trí cứ phải lấy hình tượng hoa sen nhỉ, hoa cúc hay hoa khác cũng đẹp mà?). Dãy máy bán vé tự động, cửa soát vé tự động, thang cuốn và những thiết bị kỹ thuật khác đã được lắp đặt, chỉ chờ ngày đón khách chính thức.

Như nhiều chuyến tàu trong thời gian vừa qua, các chuyến tàu sáng thứ bảy 8/6 dành cho một số đối tượng nhân dân thành phố. Đi thử nghiệm nên chưa áp dụng đúng quy trình chuẩn (ra vào ga, lên xuống tàu...), chưa dừng tại các ga, nhiều người đi lên xuống tàu vẫn thói quen như đi thời bao cấp là dồn ở các toa đầu, chen chúc lên xuống, không để ý hướng dẫn lên xuống được vẽ dưới đất... Nhưng nhìn cảnh bà con già trẻ lớn nhỏ đều háo hức, dù không ít người từng đi metro ở nước ngoài, mới thấy công trình này thực sự có ý nghĩa với người dân thành phố.

Còn vài điều cần chỉnh sửa (như tấm hình dưới đây ghi “đi bến xe Suối Tiên” tiếng Anh lại dịch “Đi Bến xe Suối Tiên” là “For Suối Tiên terminal”)... Ga Bến xe Suối Tiên nằm tại Bến xe Miền Đông mới. Sao không đặt luôn là Ga Bến xe miền Đông để khỏi nhầm với ga trước đặt ngay khu du lịch Suối Tiên nhưng lại có tên “ga Đại học quốc gia”, vì vậy bà con muốn đi KDL Suối Tiên nhiều người sẽ nhầm. Ở các cửa ga đi từ trong ra ngoài, tấm bảng lớn trên cao cần ghi ngay thông tin hướng ra đến đường nào. Hiện nay thông tin này lại để ở một cái cột nên rất hạn chế tầm nhìn, khi đông người cùng xem thì rất khó. Tóm lại nên làm như các ga metro nước ngoài, các hướng dẫn hành khách họ bố trí mình nên làm giống vậy, vì đó là các chuẩn kỹ thuật đã được đúc kết từ lâu. Đồng thời cho dân mình quen thuộc để khi ra nước ngoài dễ sử dụng metro.

Về truyền thông: ngay từ bây giờ (cũng là muộn) cần có những clip hướng dẫn sử dụng máy bán vé, đổi vé, máy soát vé, cách lên xuống tàu, an toàn trên tàu... để phổ biến trên TV, trên các mạng xã hội, đưa vào dạy trong các trường học... (giống như những clip hướng dẫn an toàn trên máy bay). Chưa có quen đi phương tiện công cộng mà sử dụng ngay phương tiện hiện đại như metro chắc chắn sẽ có những nhầm lẫn, thậm chí tai nạn nếu còn tùy tiện lên xuống.

Phần nội thất các ga chưa được trang trí hoặc bố trí quảng cáo, thông tin về các tuyến metro cùng các ga... Nếu tại mỗi ga – nhất là các ga ngầm như Bến Thành, Nhà hát TP, Ba Son – có những bức ảnh về lịch sử khu vực đó thì rất hay, góp phần lưu giữ một phần lịch sử trên mặt đất đã “biến mất” và giúp hành khách hiểu biết về lịch sử TP. Bên cạnh đó có thể là những tác phẩm nghệ thuật hoặc hình ảnh quảng cáo thật đẹp.

Kết nối giữa metro và các hướng đi và đến của người dân chưa thuận tiện. Tại các ga hình như chưa có bãi gửi xe máy hay cả xe hơi? Như vậy cũng rất hạn chế người đi metro vì phần lớn người dân đi xe máy từ nhà ra đường lớn, nơi có đường metro.

Dù vậy, rất mong tất cả sớm được hoàn thiện để Metro tuyến số 1 nhanh chóng vận hành thương mại, bà con chờ quá lâu rồi... Khi Metro số 1 chưa vận hành thì Metro số 2, số 3... thí có lẽ “nhiều khi ước mơ chỉ là mơ ước thôi” như lời bài hát trong chương trình “Ngày xửa ngày xưa”.

Hình ảnh: NAG Minh Hòa



 

MỜI CÁC BẠN ĐỌC BÀI DỰ THI CỦA MÌNH TRÊN VNN NHÉ

 CÀNG NHIỀU NGƯỜI XEM CÀNG CÓ CƠ HỘI TRÚNG THƯỞNG :)

Bài dự thi Chuyện Của Những Dòng Sông do báo Vietnamnet tổ chức. MỘT ĐỜI NGƯỜI QUA ĐƯỢC MẤY DÒNG SÔNG

Là tiến sĩ sử học nhưng Nguyễn Thị Hậu là một cây bút viết báo khét tiếng. Báo của chị vừa tung tẩy chất văn vừa chặt chẽ bởi của nhà khoa học và cũng ngồn ngộn thông tin của sử. Chị lại là người con của miền Tây nhưng sinh ra và lớn lên miền Bắc giờ định cư Sài Gòn, tức là toàn gắn với sông.
Những năm gắn với số 7 của chị là câu chuyện những con sông cụ thể. Chị hoài niệm "Một đời người qua được mấy dòng sông"- ừ nhỉ, để qua được những dòng sông mà không trôi tuột ký ức đi ấy, chúng ta phải sống hết bao nhiêu phần đời của mình, những phần đời dùng dằng níu giữ, những phần đời mãi cứ phập phồng trong ta, những cuộc đời làm ta thắc thỏm...


Một thoáng sông Gianh. Ảnh: Minh Phong


Sông Thu Bồn có thể coi là “cái nôi” của hai di sản thế giới. Ảnh: Hồ Xuân Tịnh



Sông Đồng Nai là nguồn lực của vùng kinh tế trọng điểm. Ảnh: Lê Hoàng Phong 





CĂN CƯỚC VÙNG ĐẤT – TRĂN TRỞ TỪ CHUYỆN TÁCH NHẬP

 

Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, giai đoạn 2023 - 2025, cả nước dự kiến sẽ có 49 huyện và 1.247 xã phải sắp xếp lại và điều chỉnh địa giới hành chính. Theo đó sẽ giảm 13 huyện và 624 xã. Thời gian qua một số nơi đã thực hiện triển khai thực hiện Nghị quyết 595/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Điều này khiến cho nhiều địa danh có từ hàng trăm năm trước bị biến mất, thay vào đó là những địa danh mới, khiến dư luận xôn xao, thậm chí bất bình.

Trước thực tế này, hai nhà nghiên cứu văn hóa là TS. Nguyễn Thị Hậu (Hội Khoa học lịch sử TPHCM) và TS. Trần Đức Anh Sơn (Trường Đại học Đông Á, Đà Nẵng) đã có cuộc trò chuyện xung quanh việc “làm sao giữ được tên làng khi phong trào ‘khắc xuất, khắc nhập’ cứ tái diễn ở nước ta?”.

TS. Trần Đức Anh Sơn (TĐAS): Sau một thời gian tạm lắng, nay phong trào “nhập / tách” ở nước ta lại “hồi sinh”, gây nhiều xáo trộn trong xã hội. Trong đó, có việc đổi tên các xã, huyện bị sáp nhập thành những địa danh hành chính mới, theo kiểu cơ học (như xã Quỳnh Đôi nhập với xã Quỳnh Hậu thì có tên mới là xã Đôi Hậu), khiến người dân ở các địa phương bị sáp nhập bất bình và phản ứng, vì tên quê cha đất tổ của họ tự dưng bị khai tử bởi một chủ trương (mang tính thời đoạn, biết đâu sau đó lại sửa sai). Chị nghĩ sao về chuyện này?

TS. Nguyễn Thị Hậu (NTH): “Phong trào” sáp nhập các địa phương (từ việc sáp nhập các tỉnh như trước kia, đến nay là sáp nhập các huyện, xã, thôn...), sau đó sinh ra những địa danh hành chính mới, một lần nữa lại làm dấy lên những phản ứng từ cộng đồng và sự lo ngại từ giới nghiên cứu lịch sử văn hóa. Có thể thấy sự tiếc nuối khi nhiều địa danh dân gian, địa danh hành chính mang tính lịch sử biến mất, thay vào đó là những cái tên mới, tên “ghép” vô hồn, thậm chí vô nghĩa.

“Địa danh là tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng”. Đặc điểm nổi bật của địa danh là có tính lịch sử, là sự đa dạng về ngôn ngữ. Địa danh thuộc đất nước/vùng miền/cộng đồng tộc người nào, sẽ được đặt tên theo ngôn ngữ của dân tộc, đất nước đó. Địa danh phản ánh quá trình hình thành, đặc điểm của các yếu tố địa lý tự nhiên và văn hóa, phản ánh những nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của từng địa phương. Vì vậy, hệ thống địa danh dân gian, địa danh hành chính lịch sử của một địa phương rất quan trọng, thậm chí có địa danh trở thành một “dấu chỉ” văn hóa hay một dấu ấn lịch sử.

Đối với địa danh hành chính rất nên cân nhắc khi thay đổi, đặt mới. Lịch sử nước ta trải qua nhiều triều đại, nhiều biến cố xã hội nên có nhiều sự thay đổi địa danh, ứng với thay đổi phạm vi không gian làng, xã, huyện, tỉnh... Điều này gây ra không ít khó khăn cho việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa, đặc biệt khi cần minh định một sự kiện, một nhân vật lịch sử. Không hiếm trường hợp nhiều địa phương đã xảy ra tranh chấp, mất đoàn kết vì việc này.

TĐAS: Đúng rồi. Đang yên đang lành, tự nhiên trên ban xuống cho một tờ A4 thế là cái tên làng mình hàng trăm năm tuổi bỗng dưng biến mất, thậm chí tệ hơn là làng mình, xã mình lại mang tên cái làng, cái xã bên cạnh, vốn xưa nay không được hữu hảo trong quan hệ, thì không ồn ào, không mất đoàn kết mới lạ. Tôi đồng ý với chị là tên làng, xã, huyện, tỉnh, hay nói theo ngôn từ nhà nước, là địa danh hành chính, thì có tính lịch sử và sự đa dạng ngôn ngữ. Ngoài ra, địa danh hành chính còn phản ánh quá trình thành lập làng xã, vai trò của dòng họ (chẳng hạn các làng Cao Xá, Ngô Xá, Phùng Xá… do người của các dòng họ Cao, Ngô, Phùng… lập ra), địa hình (xóm Bãi, xóm Cồn, thôn Bàu…), nghề nghiệp truyền thống của địa phương đó (làng rèn Hiền Lương, làng đệm Phò Trạch…)… Cho nên, đổi địa danh mà không tính đến các yếu tố này thì coi như thua, vừa làm xáo trộn xã hội, vừa đánh mất bản sắc và đặc tính văn hóa của địa danh / địa phương; đồng thời gây khó khăn trong quản lý hành chính xã hội.

NTH: Cải cách hành chính nhằm tăng cường sự quản lý nhà nước một cách hiệu quả hơn là việc cần làm. Tuy nhiên, với những quy định mới về sắp xếp các đơn vị hành chính huyện, xã, thôn... càng cần phải được nghiên cứu cẩn trọng. Đặt để địa danh mới (cũng như tên đường phố ở các đô thị) là một khoa học chứ không thể tùy tiện. Dễ nhận thấy một quy luật, văn bản hành chính sử dụng ngôn ngữ nào, thì ngôn ngữ ấy sẽ phổ biến và lấn át ngôn ngữ địa phương. Vì vậy nếu thực sự muốn bảo vệ sự đa dạng văn hóa - cũng là tôn trọng đặc trưng văn hóa của mỗi cộng đồng, mỗi vùng miền, thì bên cạnh sự thống nhất các “thuật ngữ” trong văn bản hành chính để sử dụng thuận tiện trong quản lý nhà nước, cần phải duy trì hệ thống ngôn ngữ địa phương và sử dụng các địa danh quen thuộc, đã phổ biến trong xã hội.

 Việc thay đổi hay xóa bỏ các địa danh không chỉ làm mất đi một “di sản ký ức” mà còn làm mất đi một nguồn “vốn xã hội” từ giá trị văn hóa của địa danh. Những địa danh dân gian biểu thị các yếu tố tự nhiên (tên sông, núi, kênh rạch...), như ở Biên Hòa (Đồng Nai) có địa danh nổi tiếng Cù Lao Phố nay thay bằng phường Hiệp Hòa; cầu Gành - cầu đường sắt quan trọng trên sông Đồng Nai, sau khi bị một xà lan đâm làm sập, bỗng trở thành “cầu Ghềnh”... Hay ở TPHCM, địa danh bằng phương ngữ như “bùng binh” thay bằng “vòng xoay”, các giao lộ nổi tiếng như Ngã sáu Phù Đổng, Ngã bảy Lý Thái Tổ, ngã tư Phú Nhuận... thay bằng “nút giao”,... Thực trạng này không những làm nghèo tiếng Việt mà còn làm mất đi sự đa dạng, phong phú của văn hóa vùng miền.

Cũng có người cho rằng, địa danh chẳng mất đi đâu khi nó còn được người dân nhắc đến. Điều này đúng mà chưa đủ. Vì địa danh là một loại hình di sản phi vật thể, được lưu truyền qua ngôn ngữ và ký ức, được chính quyền được “vật thể hóa” bằng văn bản. Vì vậy, khi “văn bản vật thể” thay đổi địa danh và phổ biến với tốc độ nhanh chóng và rộng rãi như hiện nay, thì chẳng mấy chốc địa danh cũ sẽ biến mất khỏi ký ức và ngôn ngữ của cộng đồng! Điều này có thể gây nên tâm lý phản kháng văn hóa, khi một yếu tố văn hóa bị biến mất, bị thay đổi không xuất phát từ ý chí và nhu cầu của cộng đồng - chủ thể của văn hóa.

TĐAS: Ở nước ta, nhiều địa danh có lịch sử cả ngàn năm, được lưu lại trong sử sách. Đến thời Nguyễn, cuộc cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng (1832 - 1833) đã phát sinh nhiều địa danh mới [riêng ở Quảng Nam, nhiều tên tổng, tên xã ở các huyện Duy Xuyên, Quế Sơn, Lễ Dương… được hình thành từ tờ Dụ do vua Minh Mạng ban hành vào tháng Chạp năm Minh Mạng thứ 16 (đầu năm 1836)]. Những địa danh này đã tồn tại gần 2 thế kỷ. Sau Cách mạng tháng 8, nhiều làng xã có sự tách nhập, thay đổi địa giới hành chính: một làng to được tách thành hai xã, hay hai, ba làng nhỏ hợp thành một xã mới. Cấp huyện, tỉnh cũng tương tự. Người dân đã quen với các địa danh này cũng gần 8 thập kỷ, nay lại bị đổi tên, mà lại đổi thành “dở” hơn, thậm chí “dở hơi”, đánh mất gốc tích, xóa bỏ “căn cước văn hóa” của địa danh truyền thống, nên họ phản ứng.

Để tránh tình trạng này, các địa phương có huyện, xã bị “tinh giảm” đợt này, nên thành lập các ban tư vấn, gồm những nhà nghiên cứu Hán - Nôm, chuyên gia về văn bản học, hành chính học, nhà nghiên cứu lịch sử địa phương…, để giúp cho chính quyền rà soát các nguồn sử liệu, địa chí, địa bạ, văn bản hành chính… từ thời quân chủ, thời Pháp thuộc…, truy tìm những địa danh gốc, lâu đời, có ảnh hưởng đến lịch sử - văn hóa của địa phương, để đề xuất các địa danh thích hợp cho chính quyền “đặt lại tên” cho những đơn vị hành chính phải sắp xếp trong đợt này. Tiếp đến, chính quyền cần tổ chức truyền thông về việc “đặt lại tên” cho cộng đồng cư dân ở những này để họ thấu hiểu và đồng thuận, thay vì ban hành mệnh lệnh hành chính về việc sáp nhập/ đổi tên, mà không tham khảo chuyên gia hay cộng đồng dân cư.

NTH: Đúng vậy! Nghiên cứu thay đổi địa danh là một việc làm khoa học, cần có sự tham gia thấu đáo của các chuyên gia lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ... cần được cộng đồng hợp tác và đồng thuận. Nhưng trước hết, những căn cứ để sáp nhập các địa phương dù quy mô lớn hay nhỏ cũng cần dựa trên căn cứ khoa học, không chỉ để “tiện quản lý” hay “giảm biên chế”; tránh tình trạng “tách, nhập” theo kiểu “gọt chân cho vừa giày” gây ra nhiều hậu quả hậu dài.

TĐAS: Địa danh cũng như nhân danh có nội hàm gắn với: lịch sử, văn hóa, địa lý, ngôn ngữ, nhân học…, chứ không đơn giản là cái tên, dùng để định danh trong lĩnh vực hành chính, quản lý nhà nước. Đổi tên mà làm không khéo, thì lại rơi vào cảnh: “Bây giờ làng, xã lộn nhào. Gọi làm sao, viết làm sao… bây giờ”.

 





 

 

 

BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC

  Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...