1.
Cũng như nhiều
khái niệm hiện đại khác đã xuất hiện và thâm nhập vào đời sống xã hội Việt Nam,
gần đây khái niệm “đô thị xanh” luôn được đề cập đến trong quá trình quy hoạch
phát triển và xây dựng đô thị ở nước ta. Hiện nay “đô thị xanh” được đặt trong
bối cảnh phát triển đô thị bền vững, đặc biệt dưới tác động của biến đổi khí hậu,
gia tăng dân số, đô thị hoá trên quy mô toàn cầu.
Đô thị và đô thị hoá là một quá trình tất yếu, mang lại
những cơ hội to lớn cho phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống xã hội
đô thị và nhất là cho người dân ở vùng đô thị hóa. Nhưng cùng với tác động tích
cực là hàng loạt những ảnh hưởng tiêu cực do nhiều vấn đề nảy sinh nhưng không
được lường trước và giải quyết. Đó là các vấn đề về giao thông đô thị, nước sạch,
vệ sinh, nhà ở, nước và rác thải, ô nhiễm không khí, an toàn thực phẩm, môi trường
cảnh quan, các vấn đề xã hội mới phát sinh từ đặc thù của cuộc sống đô thị...
Những vấn đề này đòi hỏi cách thức quản lý đô thị, tổ chức quy hoạch và liên kết
không gian cần được định hướng và giải quyết cụ thể ngay từ các bước quy hoạch
đô thị.
Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất nhưng Đô thị
xanh (Tiếng Anh: Green Cities) được coi là tổng thể quy hoạch xây dựng của 3 yếu
tố gồm môi trường xanh – kinh tế xanh – xã hội xanh chứ không phải chỉ dựa
vào yếu tố có nhiều cây xanh. Một cách khái quát nhất, “đô thị xanh” vừa là mở rộng vừa
là biểu hiện cụ thể của phát triển bền vững: đầu tiên là bền vững về môi trường
sống của con người, lấy cuộc sống tốt đẹp con người là mục đích và động lực của
các phương thức phát triển.
Một “đô thị xanh” mang những đặc điểm: sử dụng hiệu quả
năng lượng; giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng không thể tái tạo; có
hệ thống giao thông hiệu quả với lượng carbon thấp; nền kinh tế tuần hoàn, hệ
thống cơ sở hạ tầng xanh và thân thiện môi trường; rác thải được xử lý và giảm
thiểu; diện tích không gian xanh được quy hoạch thống nhất và gia tăng. Đô thị
xanh đầu tiên là đô thị phát triển bền vững về môi trường.
Nói cách khác, đặc tính “xanh” của một đô thị chính là mức
độ bền vững về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong quá trình phát
triển. Các đô thị sẽ đạt những mức độ “xanh” khác nhau và sự phát triển này là
không đồng đều do phụ thuộc vào điều kiện cụ thể, vì vậy chiến lược hướng tới
đô thị xanh cũng phải theo các giai đoạn khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát
triển của mỗi quốc gia hay mỗi đô thị cụ thể.
2.
Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012 -
2020 đã nhấn mạnh việc phát triển đô thị “hướng tới nền kinh tế xanh, tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, vùng và
cả nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa” đồng thời đặt ra nhiệm vụ
“nghiên cứu phát triển đô thị xanh đảm bảo đô thị hóa nhanh, bền vững”, ban
hành bộ chỉ số cạnh tranh đô thị (Chính phủ Việt nam, 2012). Tuy nhiên, việc thực
hiện các chương trình này còn gặp nhiều khó khăn và việc triển khai chưa đồng bộ.
Khái niệm “đô thị xanh” còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau, phần lớn theo
nghĩa hẹp chỉ trong phạm vi không gian, cảnh quan xanh, chưa thực sự gắn với
quan điểm phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.
Để định hướng quy hoạch và xây dựng “đô thị xanh”, nhiều
bộ chỉ số đã được đề xuất ở những khu vực, những quốc gia khác nhau. Một số tiêu
chí đô thị xanh được các nước châu Âu và nhiều nước phát triển áp dụng:
– Công trình xanh: sử dụng vật liệu xanh, tiết kiệm năng
lượng, tận dụng tối ưu tài nguyên, sử dụng năng lượng hiệu quả và vật liệu thân
thiện môi trường.
– Không gian xanh: đô thị có mật độ cây xanh cao, tỷ lệ
cây xanh/người cao, không gian công cộng, không gian công viên, mặt nước được
quan tâm.
– Chất lượng môi trường đô thị xanh: không khí sạch, giảm
rác thải, khói bụi và tiếng ồn.
– Giao thông xanh: tăng tỷ lệ giao thông công cộng, giảm
sử dụng các phương tiện cá nhân, giảm khí thải CO2.
– Công nghiệp xanh: công nghiệp công nghệ cao và sạch, hạn
chế ô nhiễm.
Ngoài ra, đô thị xanh còn phải đảm bảo gìn giữ và bảo tồn
các cảnh quan văn hóa lịch sử danh lam thắng cảnh, các cảnh quan thiên nhiên; cộng
đồng dân cư văn minh, ứng xử thân thiện với môi trường.
Tại nhiều địa phương, một số khu đô
thị mới xây dựng đã hướng đến và thực hiện được các tiêu chí “đô thị xanh” về
không gian và môi trường, nhưng còn tiêu chí công trình xanh và giao thông xanh
thì chưa được quan tâm do đầu tư xây dựng công trình xanh tốn kém hơn, ảnh hưởng
đến giá thành bất động sản; phương tiện giao thông công cộng chưa phát triển
còn phụ thuộc phương tiện cá nhân, sự thay đổi nhiên liệu xanh cũng đòi hỏi thời
gian và nguồn kinh phí lớn. Mặt khác, không gian và môi trường xanh chỉ giới hạn
trong khu đô thị đó, chưa có sự kết nối và đồng bộ với môi trường và cảnh quan
của cả khu vực hay của thành phố lớn. Việc sử dụng điện, nước để “làm xanh đô
thị” vẫn chưa phải là nguồn năng lượng tái tạo hay nguồn nước thu hồi và tái sử
dụng nên vẫn gây tốn kém cho nguồn điện, nước chung. Vì vậy đã hạn chế tác dụng
tốt của đô thị xanh với vùng xung quanh cũng như giảm hiệu quả đầu tư vào “đô
thị xanh”.
3.
Trong giai đoạn từ 2021 đến 2030, với tầm nhìn hướng đến
năm 2050, Quảng Nam đang định hình một hệ thống đô thị ven biển, tạo ra các trung
tâm dân cư mới kết hợp đô thị du lịch và đô thị công nghiệp... trở thành hạt
nhân để phát triển toàn vùng. Chuỗi đô thị này đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
nhanh về đô thị hóa, hỗ trợ bảo tồn và phát huy di sản, bảo vệ hệ sinh thái rừng,
biển đảo. Có thể nói đây chính là một cơ hội để Quảng Nam xây dựng ngay từ đầu
một chuỗi “đô thị xanh” ven biển, một sự kết hợp tuyệt vời giữa quy hoạch tổng
thể phát triển đô thị và môi trường sinh thái tự nhiên.
Căn cứ vào những tiêu chí cơ bản của “đô thị xanh” thì
năng lượng cần được coi là vấn đề “then chốt” của các đô thị mới này. Việc đầu
tiên là xây dựng một hệ thống nguồn năng lượng sạch cho chuỗi đô thị ven biển
chứ không phải là nguồn năng lượng “tự cung tự cấp” của từng đô thị. Với điều kiện tự nhiên của xứ Quảng (lượng
nhiệt cao, số ngày nắng nhiều), đô thị nằm ở khu vực ven biển nên tiềm năng nguồn
năng lượng sạch cần được ưu tiên sử dụng là năng lượng mặt trời, năng lượng
gió.
Tiếp theo là phương thức khai thác và sử dụng, tái sử dụng
nguồn nước sạch cho sinh hoạt, cho sản xuất và cho việc duy trì mảng xanh đô thị.
Công nghệ thu hồi và tái chế nước sinh hoạt, nước thải công nghiệp cho các hoạt
động khác cũng là một cơ sở công nghiệp cần thiết ngay từ đầu, cùng với nhà máy
phân loại và xử lý rác thải.
Phương thức giao thông: ưu tiên kết nối chuỗi đô thị với
nhau và giao thông nội đô bằng phương tiện giao thông công cộng năng lượng sạch
(điện), khuyến khích thậm chí quy định giao thông cá nhân cũng là xe hơi và xe
máy điện, khuyến khích xe đạp bằng việc xây dựng những công trình dịch vụ và
công ích với khoảng cách phù hợp. Thậm chí việc tính toán xây dựng các giao lộ
và vỉa hè như thế nào để hạn chế kẹt xe, dừng xe và có thể tận dụng trong trường
hợp cần thiết... cũng là một giải pháp của đô thị xanh.
Quy hoạch đô thị, xây dựng hạ tầng và các công trình kiến
trúc ưu tiên sử dụng vật liệu xanh, thân thiện với môi trường, có chính sách
khuyến khích việc sử dụng loại vật liệu này, đồng thời với những phương thức tiết
kiệm năng lượng, tiết kiệm nước khi công trình vận hành.
Và cuối cùng, môi trường xanh (cây xanh, công viên, mặt
nước...) là những yếu tố dễ nhận biết đầu tiên nhưng ít được quan tâm lâu dài.
Nhận thức của dân cư đối với môi trường xanh được thể hiện thường xuyên, thông
qua đó là sự ứng xử thân thiện với môi trường và ý thức trách nhiệm đối với cộng
đồng. Xây dựng đô thị trên cơ sở tôn trọng những đặc điểm, lợi thế của điều kiện
tự nhiên chính là việc đặt nền móng cho sự tôn trọng và bảo vệ môi trường.
Ý chí của chính quyền và cách thức vận hành của nhà quản
lý đô thị là nhân tố quyết định trong việc xây dựng và phát triển “đô thị
xanh”. Để chuỗi
đô thị mới thật sự khác biệt vùng nông thôn xung quanh, sự khác biệt bền vững,
tốt đẹp nhằm tạo động lực phát triển bền vững cho tỉnh Quảng Nam thì “đô thị
xanh” là một sự lựa chọn tất yếu!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét