PHÚT CUỐI
VỈA HÈ ĐÔ THỊ NGUỒN VỐN XÃ HỘI TO LỚN
Nguyễn Thị Hậu
1.
Đô thị là một không gian giới hạn, trong đó quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành
phần dân cư đan xen, nương nhờ vào nhau và có khi mâu thuẫn với nhau trong việc
sử dụng không gian công cộng. Chức năng, vai trò của chính quyền thể hiện qua
chính sách và phương thức thực hiện của nhà quản lý là nhằm điều tiết các quyền
lợi và nghĩa vụ đó, sao cho có sự công bằng tương đối cho các bên liên quan.
Nhiều thành phố trên thế giới đã cho
thấy những lợi ích to lớn cho xã hội, cho cộng đồng từ việc quản lý và sử dụng
vỉa hè. Chẳng cần nhìn ở đâu và phấn đấu bằng ai cho xa, cứ nhìn sang Bangkok
thôi cũng sẽ có được những bài học, kinh nghiệm hoàn toàn có thể ứng dụng được
ở TPHCM hay Hà Nội.
Bangkok là một thành phố có hơn 10 triệu
dân và hàng triệu lượt khách du lịch, từ vài chục năm nay đã phát triển phương
tiện giao thông công cộng để đáp ứng nhu cầu của phần lớn dân cư, tuy nhiên
lượng xe cá nhân như xe máy, xe hơi cũng không ít, chưa kể những phương tiện dịch
vụ nhỏ như xe tuk tuk... Thành phố rộng lớn với nhiều trung tâm, nơi nào cũng
nườm nượp người đi bộ trên vỉa hè. Nhưng vỉa hè ở đây còn phục vụ việc mua bán,
ăn uống, tham quan du lịch… được tổ chức khoa học và theo quy tắc luật lệ
nghiêm minh: có giới hạn một phần vỉa hè cho hàng quán “mặt tiền” sử dụng, hàng
rong ăn uống bán theo giờ nhất định và đảm bảo vệ sinh môi trường, vẫn có những
đoạn vỉa hè cho xe máy xe tuk tuk đậu lại. Vi phạm sẽ bị phạt rất nặng thậm chí
cấm buôn bán.
Vì vậy Bangkok có một nền “kinh tế vỉa
hè” phong phú, đa dạng, sinh động đồng thời trật tự, ngăn nắp, tuân thủ pháp
luật. Nếu sự “phong phú, đa dạng, sinh động” là đặc tính vốn có của hoạt động
kinh tế - văn hóa thì sự “trật tự, ngăn nắp, tuân theo pháp luật” có được là
nhờ vai trò của bộ máy quản lý đô thị.
2. Vỉa hè là không gian công cộng ở đô thị,
nó mang nhiều chức năng từ kỹ thuật đến văn hóa, từ giao thông đến kinh tế...
hơn nữa vỉa hè còn phản ánh thực trạng đời sống xã hội và chính sách của nhà
quản lý. Để đô thị “trật tự, văn minh” giải quyết lâu dài và triệt để “vấn nạn”
lấn chiếm nhếch nhác vỉa hè nhất là khu vực trung tâm, có thể áp dụng một số
kinh nghiệm của
nhiều thành phố trên thế giới trong việc tổ
chức lại công năng của vỉa hè.
Trong khi giao thông công cộng chưa phát
triển, xe cá nhân nhất là xe máy còn phổ biến, cần tổ chức các khu vực gửi xe
máy, xe hơi bằng việc dùng một số đoạn vỉa hè mà lưu lượng người đi bộ không
lớn làm nơi giữ xe, tránh việc giữ/gửi xe tự phát trước các hàng quán hoặc để
tràn lan trên vỉa hè, lòng đường. Nhiều
thành phố của Trung quốc đã tổ chức như vậy.
Nên cho người dân thuê một phần vỉa hè
để kinh doanh, nhất là những hộ có mặt tiền. Ở nhiều thành phố hàng quán bày bàn ghế trên
vỉa hè trong một phạm vi nhất định, căn cứ vào đó thu phí sử dụng vỉa hè và
thuế kinh doanh. Những vỉa hè rộng mà lối
cho người đi bộ chỉ cần khoảng 2m là đủ, phần trống 3-5m còn lại nên cho thuê
và tổ chức quy củ để người kinh doanh tuân thủ, luôn ngăn nắp trong việc mua-
bán. Khu phố cổ ở Hà Nội đã
thực hiện việc kẻ vạch để xe máy trên vỉa hè từ nhiều năm qua.
Tổ chức lại hàng rong theo khu vực, theo
giờ và một số quy tắc nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm,
nhưng không cần phải “đồng phục” hàng quán như đã tổ chức ở đoạn vỉa hè đường
Nguyễn Văn Chiêm. Đa dạng các loại hình xe đẩy, gánh hàng... là việc của người
buôn bán, việc của nhà quản lý và sắp xếp tổ chức quy củ, công minh và công
khai. Bên cạnh đó không nên, không thể
triệt tiêu việc bán- mua hàng rong.Với
phần lớn người bán rong khác không có điều kiện vào bán tại những khu vực quy
định, cần vận động tuyên truyền để họ có ý thức và tuân thủ quy tắc trật tự đô
thị, đồng thời cũng có biện pháp xử phạt nếu vi phạm.
Tuy nhiên, biện pháp này nếu bị lạm
dụng thì không có hiệu quả thậm chí tác dụng ngược lại. Vì vậy, trên hết vẫn là
nhận thức và ý thức của bộ máy quản lý và thực thi nhiệm vụ, từ chính quyền địa
phương phường, quận đến người kiểm tra giám sát từng khu vực, từng con đường.
Sự công tâm, công bằng, nắm vững nguyên tắc không tùy tiện, giải quyết sự việc
bằng sự tôn trọng pháp luật và người dân...
Nên tiếp cận vấn đề sử dụng vỉa hè một
cách hợp lý và từng bước sắp xếp lại theo luật pháp chứ không nên đặt ra sự cấm
đoán hay dẹp bỏ những sinh hoạt đô thị trên vỉa hè. Như vậy là giải quyết vấn
đề từ nguyên nhân, phù hợp quy luật của đô thị, lại có thêm một nguồn thu có
thể để duy tu sửa chữa và quản lý hoạt động trên vỉa hè. “Vốn xã hội” từ vỉa hè
sẽ ngày càng tích lũy và tăng cao, trong đó có cả nguồn vốn kinh tế và văn hóa.
3. Cách đây vài năm TP.HCM có cuộc ra quân
“lập lại trật tự vỉa hè” bằng biện pháp khá cứng rắn: đập bỏ những công trình
xây dựng lấn chiếm vỉa hè, kể cả những mái hiên có thể che mưa nắng cho người
đi bộ, dẹp toàn bộ hàng rong và hàng quán bày bàn ghế ra vỉa hè... Từ quận I
“phong trào” lan ra một số quận khác. Tuy nhiên, sau vài tháng thì tất cả lại
như cũ. Có thể nhận thấy mục đích đúng đắn của việc làm này, nhưng dù rất tốn
kém thời gian, nhân lực và kinh phí, được phần đông dư luận ủng hộ, nhưng phong
trào đã không đạt hiệu quả. Đó là vì những hành động “quyết liệt” chỉ
nhằm triệt phá cái ngọn mà không giải quyết từ gốc, dùng thế lực của chính
quyền và những biện pháp thuận lợi cho “nhà quản lý” và đẩy mọi khó khăn về
phía người dân.
Quản lý và quản lý đô thị là một khoa
học, vì vậy điều quan trọng và đầu tiên là cần nhận biết tính quy luật của sự
việc, hiện tượng cùng với nguyên nhân của nó, từ đó mới có thể giải quyết tận
gốc. Quản lý theo kiểu “thực trạng và giải pháp” dẫn đến những “phong trào,
chiến dịch, ra quân”, đó là tư duy và tác phong thời chiến trở thành công cụ
quản lý xã hội trong thời bình.
Đó là chưa kể một nguyên nhân sâu xa:
trung tâm thành phố vốn được quy hoạch và xây dựng mang chức năng khu vực công
quyền, dịch vụ và thương mại. Vì vậy trước đây số lượng người và các nhu cầu
khá phù hớp với chức năng của khu vực. Việc chuyển đổi công năng của nhiều công
trình ở đây sang nhà ở, phát triển nhiều tòa nhà cao tầng đã thu hút số lượng
lớn người đến đây, giao thông không đáp ứng
được, mạng lưới dịch vụ cũng tăng theo một cách tự phát, phá vỡ sự “cân
bằng” trong không gian đô thị.
Sẽ tốt hơn
nếu chính quyền sớm có chính sách giải quyết hài hòa những “mâu thuẫn” trên vỉa
hè để thành phố sạch đẹp và trật tự, quyền lợi các bên cũng được đáp ứng: Nhà
nước có nguồn thu, hộ kinh doanh có việc làm để tăng thu nhập và người dân vẫn
được thụ hưởng các dịch vụ trên vỉa hè. Chính quyền đô thị không chỉ là tổ chức
bộ máy sao cho phù hợp với đời sống và sự phát triển của đô thị, mà trước hết
là thấu hiểu đối tượng mình phục vụ để quản lý bằng khoa học và sự nhân văn.
Vụn vặt đời thường
@ "NGÀY DI SẢN"
Sáng có việc mới
nhớ ra hôm nay là Ngày Di sản văn hóa VN (vì sao là ngày này thì hỏi bác Guc).
Bữa trước khi
công bố thành lập Hội đồng di sản quốc gia, mình chúc mừng một người bạn có tên
trong HĐ ấy và "nhờ vả": mong rằng HĐDSQG quan tâm nhiều hơn, thực chất
hơn đến di sản đô thị, nhất là phía Nam vì trong HĐ ấy chỉ có 1 người ở Huế và
1 người ở TPHCM, khó có thể nắm hết tình hình bảo tồn di sản phía Nam, nơi đang
phát triển đô thị hóa rất nhanh, quỹ di sản lâu nay đã hư hao nhiều.
Ngẫm ra, các cơ
quan, ban ngành, hội đoàn... liên quan đến bảo vệ di sản văn hóa không ít,
trong đó nhiều người từng là quan chức, là nhà nghiên cứu... Nhưng những tiếng
nói bảo vệ di sản trên công luận và với chính quyền vẫn còn ít ỏi.
Với mình, cứ
cái gì hay nghề nào có một "ngày" là cái ấy nghề ấy... rất có vấn đề!
Đặc biệt từ 10 năm nay mình "xông vào" lĩnh vực bảo tồn di sản đô thị
thì ngày nào cũng phải nói đến chuyện di sản!
Vài năm rồi, cứ vào dịp này hân là có mấy bạn
nhà báo muốn phỏng vấn hay làm talkshow, mình từ chối, vì "nói mãi vẫn là
thực trạng ấy, đề xuất giải pháp ấy, vẫn những mong muốn hy vọng như thế. Nói
mãi, không khéo người ta bảo mình ham hố lên TV, rằng về hưu rồi nói ai
nghe!"
Thôi cứ làm được
gì thì làm, thỉnh thoảng có một ngày không phải để cờ quạt họp hành kỷ niệm mà
để nhìn lại công việc và tâm huyết của mình, cũng hay 🙂
23.11.2020





NGỌN LỬA HOANG DÃ của tác giả LONG ỨNG ĐÀI
Nhiều bạn đọc đã biết đến cuốn sách “Người Trung quốc xấu xí” của Bá Dương – cũng một tác giả từ Đài Loan - phê phán những thói hư tật xấu có tính “truyền thống” trong sinh hoạt, những “cố tật” của người TQ trong đời sống, ứng xử... ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Cuốn sách “Ngọn lửa hoang dã” ra đời sau Người TQ xấu xí, nó
tập trung phê phán thái độ của người TQ trước các hiện tượng tiêu cực của xã hội
Đài Loan thập niên 1980, nhấn mạnh vai trò của những người trí thức và thị dân
nơi đô thị.
Tôi đã đi Đài Loan, đọc cuốn sách này và thấy rằng lúc đó
Đài Loan cũng giống như VN bây giờ. Nhưng chỉ ba mươi năm thôi mà Đài Loan đã
thay đổi vượt bậc! Những tiếng nói như
cuốn sách này chắc chắn góp phần không nhỏ vào cuộc đổi thay ấy!
Một sự thú vị: Từ 1985 tác giả - trong “tự bạch” – đã nói về
thân phận của mình khi mọi người phát hiện ra tác giả “không phải là con người
mà là một phụ nữ”. Nhưng đến 2016 – hơn 30 năm sau – Đài Loan có nữ Tổng thống
đầu tiên là bà Thái Anh Văn, và bà cũng vừa tái đắc cử năm 2020.
Đọc cuốn sách này cũng như đọc Người TQ xấu xí, nếu thay tất
cả các từ TQ/Đài Loan bằng VN thì rất thích hợp! Khi đọc chắc ai cũng nghĩ sách
nói về VN hiện nay. Nhưng ba mươi năm nữa VN có như Đài Loan bây giờ không
thì... tôi không dám chắc!
Sau đây là Lời giới thiệu ở bìa 4 cuốn sách NGỌN LỬA HOANG
DÃ. Một số đoạn thú vị mình post ở comts.
***
Tháng 11.1984, với cảm hứng từ lời nói của một Ủy viên Lập
pháp viện Trung Hoa dân quốc, Long Ứng Đài đã viết bài bình luận “Người Trung
quốc! Anh không biết tức giận ư?”Trên tờ Trung quốc thời báo, tạo ra một hiện
tượng dư luận. Tiếp đó Trung quốc thời báo với một chuyên mục mang tên Dã Hóa tập
chuyên đăng những bài bình luận mang tính phê phán của Long Ứng Đài về các vấn
đề môi trường, trị an, giáo dục... tạo nên một cuộc lật đổ về nhận thức đối với
giới truyền thông Đài Loan thời điểm đó. Tuyển tập Ngọn Lửa Hoang Dã được ra đời
từ tập hợp những bài viết trong giai đoạn 1984 – 1985.
Cuốn sách này đã nghiêm khắc phê phán những vấn đề của xã hội
Đài Loan trong thập niên 1980. Vào thời điểm đó Đài Loan đang bị ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, trật tự trị an đô thị không được thực thi tốt, nhưng người
Đài Loan vẫn tiếp tục bỏ mặc những vấn đề bất hợp lý của xã hội, dùng một tâm
thái “nhẫn nại” để sinh tồn. Long Ứng Đài đả cố gắng khích lệ độc giả “tức giận”
với những thực tế đó, đưa ra những câu hỏi cũng như sự phẫn nộ của họ đối với
trách nhiệm của chính quyền.
Khi được xuất bản thành sách vào năm 1985, nó đã trở thành một
hiện tượng xã hội với ảnh hưởng sâu rộng khắp các tầng lớp xã hội, nhất là đối
với tầng lớp sinh viên. Học sinh. Cuốn sách không chỉ có ảnh hưởng ở Đài Loan,
nó còn có ảnh hưởng sâu rộng đấn xã hội TQ đại lục. Cuốn sách cho họ có thêm một
lựa chọn là trở thành trí thức xã hội trong không gian công cộng , trở thành
con người với nền tảng về lương tri cá nhân cùng trách nhiệm xã hội , có thể
dùng sức mạnh ngôn ngữ để sửa đổi những thói tật của xã hội.
P/S. Sách do NXB Hội nhà văn và DOMINOBOOK xuất bản.
DOMINOBOOK từng hai lần đạt giải thưởng SÁCH HAY.
NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN CỦA TÔI
1 1. Hơn
bảy mươi năm trước, vào năm 1942, ba
tôi tốt nghiệp trường sư phạm Lasan Taberd ở Sài Gòn và được phân về dạy tại Cái
Răng, Cần Thơ. Sau đó ông xin về dạy trường tiểu học huyện Chợ Mới (tỉnh An
Giang) - quê nhà - để tiện chăm sóc ông bà nội tôi.
Ông dạy lớp Nhứt nhưng được nhiều học trò các lớp khác biết và quý mến,
vì là thầy giáo nhưng ông “có máu đờn ca hát xướng” – như một người học trò của
ông là nhà văn Nguyễn Quang Sáng sau này nhớ lại. Thầy giáo mà biết đờn ca là một
điều rất lạ đối với đám học trò ở một
trường huyện xa
xôi. Sau giờ học vào buổi chiều, ba tôi dạy hát cho học
trò bằng cây đờn Banjo tiếng nghe giòn tan, vui tươi. Rồi ông thành lập nhóm
“văn nghệ” vào ngày hè đi biểu diễn gây quỹ giúp học sinh nghèo trong trường.
Tiếng hát của học trò đã mang lại sức sống cho
phố huyện, ban hát của thầy trò đi đến đâu cũng được bà con ủng hộ.
Từ cách mạng tháng Tám 1945 ba tôi đi
kháng chiến, ông từ giã bục giảng để
“đi hát”: lập đoàn hát biểu diễn suốt chín năm rồi tập kết ra miền Bắc năm 1954.
Thời gian chiến tranh ông thường dẫn Đoàn cải lương Nam bộ, Kịch nói Nam bộ đi
chiến trường phục vụ bộ đội. Trong
chuyến đi, có lần ông
đến biểu diễn tại một binh trạm trên cung đường Trường Sơn. Ở đó trong cuộc trò
chuyện một bác sĩ đã nhận ra ông là thầy giáo của mình hồi lớp Nhứt. Thầy trò gặp
nhau mừng rỡ, bác sĩ quân y vẫn cung kính gọi ông là thầy xưng con như thủa ấu
thơ.
Sau này nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã viết
về ông qua nhân vật thầy giáo trong tiểu thuyết Dòng sông thơ ấu. Ông và nhà
văn Nguyễn Quang Sáng cũng là hai người bạn thân thiết.
2. Ba tôi là người Thầy đầu tiên
của tôi, không chỉ dạy chữ mà Ba dạy tôi làm Người. Một đoạn tôi viết về Ba vào
ngày giỗ lần thứ 10 của ông (1995):
Năm 1973, Hiệp định Paris được ký
kết. Trong không khí náo nức chung tôi có một niềm vui nhỏ dành tặng ba nhân
ngày đầu năm. Đó là việc tôi thi đậu vào trường Nghệ thuật Sân khấu. Khi tôi hồi
hộp báo tin, không như tôi nghĩ, ba ngồi lặng với vẻ băn khoăn lo lắng. Cuối
cùng ba nói với tôi, trang nghiêm mà trìu mến:
- Ba rất vui khi có một đứa con
muốn nối nghiệp ba. Trước khi con tự quyết định tương lai của mình, ba muốn nói
với con điều này. Mọi nghề nghiệp đều đẹp và đều sẽ thành công nếu ta lao động
kiên nhẫn và trung thực. Nhưng trong nghệ thuật thì còn phải có một điều kiện
quan trọng, đó là tài năng. Không có tài thì không có vai diễn hay, mà đã là diễn
viên phải là một diễn viên giỏi. Đây không phải là chuyện danh tiếng mà là chuyện
làm gì để có ích nhiều hơn cho mọi người, cho xã hội, và cho bản thân mình.
Với ba tôi, danh hiệu “nghệ sĩ” thật
là cao quý… Lần đầu tiên ba tâm sự với tôi về nghề nghiệp cùng những buồn vui
thăng trầm của cuộc đời nghệ sĩ, khi hiểu được điều đó tôi mới thực sự trở
thành “người bạn” nhỏ của ba.
Khi tôi tốt nghiệp đại học và được
trường giữ lại làm giảng viên, ba tôi rất vui vì trước đây ông cũng là một thầy
giáo. Ông hay nói với tôi: “Người thầy giáo cũng như người nghệ sĩ. Phải yêu
nghề, yêu người, yêu đời sâu sắc thì mới có thể đứng trên bục giảng hay trên
sân khấu để mang đến cho mọi người những điều tốt đẹp của cuộc sống. Thầy giáo
hay nghệ sĩ đều là những “kỹ sư tâm hồn”, nhưng tiếc rằng giữa hai nghề này
luôn có một khoảng cách khá xa… Người thầy giáo thì thiếu tâm hồn nghệ sĩ, còn
người nghệ sĩ lại thiếu đạo đức của người thầy!”
3. Gần như cả cuộc đời ba tôi đi
theo “nghiệp hát”, là người nghệ sĩ nhưng ông giữ được nhiều thói quen sinh hoạt
của nghề giáo. Đó là sự ngăn nắp, sạch sẽ; thói quen ghi chép những điều nhìn
thấy, cảm nhận, đặc biệt là tình yêu sách vở. Anh
chị em tôi thừa hưởng được tình yêu với văn học nghệ thuật và thói quen đọc
sách từ ba, biết dành dụm tiền mua sách, biết chọn sách để đọc, và biết chia sẻ
cảm xúc sau khi đọc một cuốn sách, xem một bộ phim hay vở kịch... cũng là nhờ
ba tôi!
Là thầy giáo của một thời còn
phong kiến nhưng ông rất dân chủ trong nuôi dạy con cái: không áp đặt trong mọi
suy nghĩ, hành xử, chỉ phân tích đúng sai; luôn trao đổi và lắng nghe nhất là
khi con cái có khuyết điểm, và ông cũng thường xuyên nói chuyện về công việc của
mình cho con nghe, hỏi nhận xét của các con về những “chuyện đời” mà ông chứng
kiến, ông còn nói với các con những lỗi lầm của
mình để các con biết mà tránh... Ba tôi luôn nói rằng, điều này ông được thừa
hưởng từ người Cha, tức là ông nội của tôi, chứ không phải từ giáo dục trong trường
học, vì thời đó thầy giáo Việt thì còn phong kiến lắm, thầy giáo Pháp thì rất
coi thường người Việt.
Sự dân chủ, công bằng này còn là
phương châm hành xử của ông trong nhiều cương vị lãnh đạo,
trong đối nhân xử thế với bạn bè, đồng nghiệp, người thân. Sau này đọc những gì ông nội tôi viết để lại
cho con cháu tôi càng thấy rõ "truyền thống" này của gia đình tôi.
Đấy là những điều tôi học được từ
Ba tôi - người Thầy đầu tiên của tôi!
Nguyễn Thị Hậu
Văn hoá thị dân xây dựng đô thị văn minh
Thị dân là
gì? Câu hỏi tưởng chừng có câu trả lời đơn giản nhưng hóa ra lại khá phức tạp, bởi vì văn hóa của thị dân góp
phần quan trọng tạo nên diện mạo một đô thị. Từ đó “thương hiệu” của đô thị được hình thành và củng cố, nhìn từ góc độ văn hoá.
Trước đây
người ta hiểu “thị dân” là người sống ở đô thị. Nhưng giờ đây với sự phát triển
đa dạng của đô thị và sự phức tạp của quá trình đô thị hoá, cách hiểu này chưa
đầy đủ. Không thể định nghĩa “thị dân” bằng cách xác định nơi sinh sống mà phải
từ khía cạnh văn hóa của người sống ở đô thị. Một vài đặc
điểm nhận dạng thị dân và văn hoá thị dân như sau:
“Thị dân” là
người sinh sống ở một trong những thành phố lớn trên thế giới. Là người tiêu
dùng khá giả, có quan điểm sống lạc quan và rất khác những người sống ở
"thị trấn nhỏ" hoặc khu vực nông thôn... Văn hóa thị dân vừa là một tiểu văn hóa
(subculture), vừa là một lối sống hiện đại. Thị dân có 6 đặc điểm chính: Thiếu
thời gian, tự hào về văn hóa đô thị, có hiểu biết về truyền thông
(media-literate), có ý thức về thương hiệu hàng hóa, tiêu dùng theo thị hiếu
(trend-sensitive) và có ý thức về văn hóa” (*)
Hiện nay ở nước ta sự hình thành
nhiều đô thị gắn liền với quá trình hiện đại hóa. Lối sống, nhịp sống thời công nghiệp tạo nên
văn hoá đô thị thay đổi nhanh chóng,
nhất là dưới tác động của “gia tăng dân số cơ học” là quá trình
nhập cư với tốc độ và mật độ cao. Đô thị hiện nay thực hiện vai trò là trung tâm đa chức năng
của một khu vực rộng lớn, do đó văn hoá đô thị phản ánh ứng xử của cộng đồng
người nhiều nguồn gốc cùng sống trong môi trường xã hội giới hạn về không gian, điều kiện vật chất không theo kịp dân cư luôn có xu hướng tăng nhanh
và mang tính bất thường.
Nhìn từ sự phát triển kỹ thuật, tại đô thị luôn xuất hiện nhiều phương tiện vật chất mới nhằm phục vụ và giải quyết những nhu cầu của
cuộc sống hiện đại. Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật mới phản ánh khá chính xác lối sống thị dân và
văn hoá đô thị, tiêu biểu và quan trọng nhất là ứng xử với giao thông và
truyền thông – hai đặc trưng quan trọng của đô thị hiện đại.
Về giao
thông. Không đâu tập
trung nhiều phương tiện và đầu mối giao thông như ở đô thị, đô thị càng lớn
phương tiện giao thông càng nhiều, kéo theo hệ thống đường xá cầu cống phát
triển và hoàn thiện. Nhu cầu giao thông trong đô thị/ giữa các đô thị với nhau
là yếu tố tác động để những phát minh mới về phương tiện
và kỹ thuật giao thông, trong đó có phương tiện công cộng. Sử dụng phương tiện
giao thông công cộng là một đặc điểm của thị dân. Nó tạo nên và
củng cố thói quen đúng giờ, xếp hàng, tuân thủ quy định về an toàn giao thông,
khuyến khích hoạt động cá nhân như đọc sách, nghe nhạc, lướt web, hạn chế thói quen gây ảnh hưởng đến người xung
quanh như nói to, xả rác… trong không gian hẹp và đông người như xe bus hay metro.
Ngay cả việc sử dụng phương tiện giao thông cá
nhân cũng đòi hỏi sự tôn trọng không gian công cộng: dừng xe đúng đèn tín hiệu,
đúng vạch, đi đúng làn đường… để bảo đảm an toàn cho mình và cho người khác.
Tiến tới ứng xử một cách văn minh như ở giao lộ sẵn sàng nhường đường cho người đi bộ, người
khuyết tật… Sự tuân thủ luật pháp trở thành quy tắc đạo đức
trong hành xử hàng ngày. Khi ấy văn hoá giao thông ở đô thị là chuẩn mực cho
nhiều tiểu vùng văn hoá khác.
Về truyền
thông. Ngày nay đô thị là nơi tập trung dày đặc
những con người làm việc không thể thiếu máy tính và mạng Internet. Đây cũng là
nơi thu nhận và lan toả tất cả các loại thông tin “nóng” hay “nguội” bằng nhiều
hình thức truyền thông: báo chí in, TV, đài phát thanh, Internet (báo mạng, các
mạng xã hội…). Sự hiểu biết về truyền thông trong xã hội hiện đại chính là sự
đòi hỏi người tiếp nhận thông tin phải có trách nhiệm chọn lọc cho mình và cho
người khác. Vậy nhưng nhiều người đã sử dụng mạng xã hội tiếp tay cho những tin tức, hình ảnh “giật gân” mà thực sự không biết nguồn tin ấy thật giả thế nào.
Ứng xử với
thông tin thời hiện đại không thể bằng kiểu “dư luận” đồn thổi của làng xã như
xưa kia. Truyền thông nào xã hội ấy, và ngược lại. Nhìn vào văn hoá đô thị qua
truyền thông có thể nhận biết văn hoá của thị dân. Bên cạnh sự điều hành của chính quyền đô thị
với những quy tắc, luật lệ phù hợp sinh hoạt và vận hành của đô thị, các tổ
chức cộng đồng xã hội cần được tạo điều kiện để phát huy trách nhiệm của mình
với sự phát triển của đô thị. Đây là điều kiện quan trọng để đô thị phát triển
bền vững.
Qua hàng chục
hàng trăm năm, lối sống, văn hóa đô thị được hình thành qua nhiều thế hệ thị
dân.Tuy nhiên, khi đô thị chịu nhiều biến động, có những thay đổi lớn về cơ cấu
dân cư trong một thời gian ngắn thì không kịp “di truyền và
củng cố” lối sống thị dân và văn hóa đô thị. Vì vậy,
giữ cho đô thị ổn định về dân cư, nhất là ở trung tâm hay khu vực có lịch sử dân cư lâu đời, tránh gây ra xáo trộn lớn gây bất ổn về tâm lý, lối sống,
văn hoá… Đây chính là một trong những phương cách gìn giữ
đặc trưng văn hoá đô thị. Như vậy thị dân mới có thể tích luỹ những hiểu biết
về văn hoá, từ đó tự hào về văn hoá đô thị, tiến tới xây dựng thương hiệu cho
từng đô thị.
Thành phố Hồ
Chí Minh hướng đến một thành phố “văn minh – hiện đại – nghĩa tình”, trong mục
tiêu đó có sự tiếp nối truyền thống ứng xử tình nghĩa của người dân, đồng thời xây
dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, văn minh về nếp sống. Lĩnh vực giao thông và truyền
thông phản ánh phần quan trọng của điều kiên vật chất và tinh thần của thành
phố. Hiện nay, nếu truyền thông khá phát triển (internet, báo chí online, mạng
xã hội...) thì giao thông còn nhiều vấn nạn (đường xá không đáp ứng nhu cầu, thường
xuyên kẹt xe tắc đường, ngập nước...). Tuy nhiên những hiện tượng ứng xử chưa
văn minh trong tham gia giao thông (đặc biệt giao thông cá nhân), tham gia
truyền thông (nhất là mạng xã hội) thì khá giống nhau. Có thể nhận thấy do
“cung và cầu” chưa phù hợp: dân số tăng nhanh, mật độ ngày càng đông đúc, nhịp
sống ngày càng hối hả nhưng đường xá không tăng tương ứng, lại thường xuyên hư
hỏng xuống cấp...; internet phát triển nhanh “phủ sóng” rộng với nhiều hình
thức nhưng một bộ phận người dân và nhà quản lý không biết sử dụng hoặc sử dụng
chưa cho hiệu quả tốt.
Khi yếu tố
khách quan (kỹ thuật hiện đại, phù hợp môi trường đô thị) và yếu tố chủ quan
(nhận thức, trình độ của nhà quản lý và văn hóa của thị dân) phát triển đồng
bộ, khi ấy sẽ tạo nên “diện mạo” một thành phố văn minh – hiện đại.
Nguyễn Thị Hậu
Bộ phim CON ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn A. Tolxtoi. Chủ trang đã nhiệt tình nhận lời nhưng cũng nói rõ, chắc phải chờ một thời gian vì phim nhiều tập nên phải mất khá nhiều thời gian và công sức mới có thể post được. Tôi kiên nhẫn chờ đợi, lúc rảnh rỗi thì đọc lại tiểu thuyết này – một trong những tác phẩm văn học Nga – Xô viết yêu thích nhất của tôi.
Tiểu
thuyết “Con đường đau khổ” là bộ “sử thi” về cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất ở Nga và cách mạng tháng Mười 1917, từ góc nhìn của tầng lớp trí thức, phản
ánh số phận các nhân vật chính cũng là trí thức – tiểu tư sản thành thị. Nó dựng
nên bao nhiêu nhân vật bao nhiêu tính cách, từ trí thức salon đến trí thức dấn
thân, từ tư sản, sinh viên đến dân nghèo thành thị, từ quân nhân đến vô chính
phủ, từ nông dân mugic đến quan chức cao cấp trong chính quyền Nga Hoàng hay
chính phủ lâm thời, từ công nhân binh
lính đến các lãnh tụ cách mạng... Đến nay sau hơn một trăm năm, dù cuộc cách mạng
tháng Mười có thể được nhìn nhận đa chiều, khách quan và thực chất hơn... thì
cũng không thể phủ nhận những tác động to lớn của nó đến xã hội Nga già cỗi, bảo
thủ và gần như tê liệt vào cuối Thế chiến 1, đã làm thay đổi xã hội và đất nước
Nga, cũng là làm cho thế giới chuyển sang một thời kỳ mới (và hơn 70 năm sau sự
tan rã của Liên bang Xô viết cũng gây ra tác động tương tự).
Từ
lần đầu xem phim Con đường đau khổ, tôi đã rất ấn tượng với hai nhận vật nữ,
“hai chị em” (tập 1 của tiểu thuyết) là Đasa (em) và Kachia (chị). Hai các tên
rất Nga, hai vẻ đẹp một trong sáng một kiêu sa, hai tính cách một rất cương nghị
một quá đỗi dịu dàng... Tưởng như mâu thuẫn trong mỗi người nhưng lại hòa hợp
và tạo nên số phận kỳ lạ của hai chị em. Họ không phải chỉ là những bông hoa cắm
trong bình và im lặng phô vẻ đẹp của mình, họ đã vượt lên chính mình từ nhận thức
nội tâm, sự thay đổi ở họ bắt đầu từ “cảm tính” nhưng ngày càng được củng cố vững
chắc, vì nó dựa trên sự nhân hậu, lòng thương người, luôn công tâm với mọi người
và nghiêm khắc với chính mình. Thoát ra khỏi cái bình hoa chật chội, hai chị em
Kachia và Đasa như hai bông hoa trên cánh đồng Nga bạt ngàn hoa dưới bầu trời
xanh đầy nắng gió.
Cùng
với “hai chị em” là hai người đàn ông đã gặp họ đúng vào thời gian của những
thay đổi, loạn lạc và chiến tranh... để rồi số phận của hai người đàn ông này gắn
chặt với hai chị em, bất chấp chết chóc, phản bội và chia ly... Đó là kỹ sư
Teleghin và sĩ quan Rosin. Cả hai đều thông minh, nhân hậu, là những trí thức
Nga luôn day dứt trước thời cuộc, cố gắng đi tìm cho mình một vị trí để “phụng
sự nước Nga”. Hai người đàn ông đã trải qua những thử thách, nghi ngờ, tuyệt vọng,
cả cái chết... Nhưng hình bóng hai chị em – hay chính là khát vọng về sự chính
trực, vẻ đẹp của tâm hồn Nga và lòng yêu thương con người – đã giúp họ thoát khỏi
sự tàn khốc của chiến tranh, tìm được về bên người yêu dấu.
Cuộc
đấu tranh nội tâm của các nhân vật chính thật ra là đi từ sự phức tạp, chênh
vênh, vị kỷ... của đời sống thị dân tù túng “quẩn quanh trong tổ” đến sự chân
thành, giản dị, hết mình, vì người khác... trong đời sống chiến tranh và được
tiếp xúc với nhiều loại người khác nhau.
Những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống khiến người ta phải nhìn lại và
thay đổi mình, khát vọng “sống tốt hơn” mạnh hơn khát vọng “được sống”, bởi vì
họ đã từng “sống mòn”. Quan trọng là họ thoát khỏi những định kiến sinh ra từ vị
thế xã hội, từ lối sống, từ hoàn cảnh của mình để có cái nhìn khác đi, cởi mở
hơn với con người và cũng vị tha hơn với lỗi lầm của chính mình.
Một
câu nói của Rosin được nhiều người thế hệ của tôi nhớ đến, có lẽ cũng vì khát vọng
bình yên, hạnh phúc của một thời chiến tranh “Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần,
những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét, và chỉ còn lại không phôi pha tấm lòng
em nhẫn nại, dịu dàng và chan chứa tình yêu thương.” Tôi cứ nghĩ đây mới chính
là “thông điệp” mà tác giả gửi đến cho người đọc, khi đã trải qua “con đường
đau khổ” cùng ông, dẫu rằng thời kỳ ông viết tiểu thuyết này và cho đến nay, “đấu
tranh này là trận cuối cùng” vẫn là câu cửa miệng của chính thể XHCN không chỉ ở
nước Nga.
Cả
bốn nhân vật chính đều mang vẻ đẹp Nga rất giống hình dung của tôi khi đọc tiểu
thuyết. Còn phải nói, ánh mắt luôn là câu hỏi lặng thầm của Đasa đúng là như vậy,
nỗi buồn như tuyệt vọng của Kachia phải như thế, sự cương nghị Teleghin, sự dằn
vặt của Rosin thì không thể có gương mặt khác được... ngoại hình các nghệ sĩ rất
phù hợp với các nhân vật! Xem những phân đoạn của Kachia và Rosin tôi lại hình
dung ra những nhân vật trong các truyện ngắn của Pauxtopxki: Tuyết, Bình minh
mưa... Cả Anna Karenina nữa, giá mà Svetlana Penkin (người đóng Kachia) vào vai
này nhỉ! Còn nàng Đasa kiều diễm (diễn viên Irina Alferova) với gương mặt trong
sáng dưới chiếc mũ trắng lướt đi trên đường phố... giống như “Người đàn bà xa lạ”
của Kramxkoi, mà trong lần ngắn ngủi đến Moskva tôi đã cố gắng đến bảo tàng xem
trực tiếp, vì bức tranh đã để lại một ấn tượng rất mạnh từ khi tôi nhỏ xíu lần
đầu nhìn thấy trên một tờ họa báo Liên xô.
Có
lẽ ít có phim Liên xô nào mà lời thoại mang tính tự sự nhưng tư nhiên, không bị
“kịch hóa” - như lời thoại và lời dẫn trong phim Con đường đau khổ. Tất nhiên
là do phim dựa vào tiểu thuyết, nhưng khá nhiều phim LX (và dòng phim XHCN)
nghe lời thoại của các nhân vật đôi khi như nhai phải sạn, hoặc cứ phải “trân
mình” theo ngôn và ngữ của diễn viên. Nhiều câu nói của các nhân vật tưởng như
nói về chính VN sau 1975, thậm chí như tiên đoán số phận của nước Nga trong thế
kỷ 20. Và không khỏi chút tiếc nuối, giá mà chúng ta cũng có được những bộ sử
thi chân thực bằng tiểu thuyết, bằng phim như vậy!
Nhân
đây xin cám ơn người biên dịch, chị Phan Bạch Yến – chủ trang “Lặng lẽ nước
Nga”, chị đã biên dịch rất nhiều phim Nga - LX bằng ngôn ngữ uyển chuyển, tinh
tế, giàu nhạc điệu, và cho người xem/nghe một cảm giác “Nga” thật tròn đầy!
8.11.2020
Đây
là bản tiếng Việt tiểu thuyết Con đường đau khổ do Cao Xuân Hạo dịch từ nguyên
bản tiếng Nga, nxb Văn nghệ TPHCM năm 2000, in lần thứ tư. Mình thích bản này
vì khổ nhỏ tiện mang theo người để xem, và có bìa do họa sĩ Trịnh Cung vẽ rất đẹp
:)
BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC
Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...