Tạp bút, Nguyễn Thị Hậu
Lâu rồi tôi mới có
dịp trở lại những làng gốm một thời nổi tiếng: Phù Lãng, Thổ Hà, Bát Tràng,
Đông Triều... Các “làng gốm” đã thay đổi theo hướng đô thị hóa: đường làng xây bê
tông sạch sẽ, lò nung nhỏ phổ biến thay thế các lò nung bằng củi, than truyền
thống, nhà xưởng khang trang, cơ ngơi đàng hoàng, sản phẩm phong phú với những
mẫu mã khá hiện đại... Khắp nơi là cửa hàng cửa hiệu của những chủ lò gốm là
người làng cũng có mà của người nơi khác đến đây thuê mặt bằng bán hàng cũng
có. Tính chất thương nghiệp đã/ đang lấn dần tính chất làng nghề của những làng
gốm cổ.
Quy trình sản xuất
gốm men xanh trắng, men màu ở Bát Tràng, Đông Triều đã hiện đại hóa từ khâu tạo
dáng đến lò nung. Men “công nghiệp” thay thế hoàn toàn chất liệu men truyền
thống, hoa văn “dán” decan phổ biến hơn vẽ tay. Dù có vẻ rực rỡ hơn nhưng không
có độ sâu của màu men và hầu như không còn những chi tiết “ngẫu hứng” của người
thợ trên từng sản phẩm thủ công như ngày nào. Vì vậy làm mất dần sự độc đáo của
sản phẩm qua loại hình, hoa văn, màu men, chưa kể nhiều sản phẩm bán tại đây
được sản xuất từ nơi khác. Đến chợ gốm ở đây có thể nhìn thấy những đồ gốm cũng
có ở nơi khác, thậm chí có cả ở nước ngoài. Tuy vậy cần ghi nhận sự đa dạng của
sản phẩm gia dụng đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đồng
thời, việc sản xuất hàng loạt và tính chất “thương nghiệp” đã góp phần mang sản
phẩm của làng nghề đi xa hơn.
Những làng “gốm sành” vẫn giữ được sự độc đáo bắt đầu từ việc “bảo lưu”
chất liệu: đồ sành mộc không vẽ men màu, không nhiều chi tiết trang trí. Chỉ
màu nâu sành đã bao nhiêu sắc độ khác nhau, những giọt men sành đọng lại đầy
ngẫu hứng. Vẫn phương pháp thủ công với bàn xoay và dụng cụ giản đơn, sản phẩm
không chỉ là chum vại, tiểu sành hay vài loại đồ gia dụng xưa cũ mà đã có nhiều
sản phẩm mỹ nghệ như tranh gốm, bình hoa, đèn trang trí… Trên bức tường rêu
xanh của nhiều “xưởng” gốm treo những bức phù điêu, tượng nhỏ... trông thật có
hồn hơn khi chúng là những sản phẩm lưu niệm trong các cửa hàng mỹ nghệ sang
trọng trên thành phố. Tài năng người làm
gốm ở đây, mà sự độc đáo khác biệt của mỗi nhà sản xuất cũng ở đây. Sự kết hợp
giữa những người nghệ sĩ và người thợ làm gốm đã làm cho làng sành hồi sinh.
Đi dọc đường
làng hai bên là những bức tường xây bằng bao nung, bằng tiểu sành phế phẩm phủ
dây mướp mềm mại thấp thoáng hoa vàng mang lại cho làng gốm vẻ cổ xưa, tôi chợt
nhớ câu chuyện trong một cuốn sách về gốm cổ: loại men rạn đặc biệt có được bắt
đầu từ một ‘sự cố” của lò nung... Bạn hỏi sao nghề của tôi lại thích thú với sản
phẩm bị hư hỏng? Đó là vì khi quan sát những phế phẩm do lỗi kỹ thuật chúng ta sẽ
biết công nghệ, quy trình sản xuất, từ công đoạn tạo dáng, tráng men, tạo hoa
văn, đến sửa sang, chồng lò, nung và hoàn chỉnh sản phẩm... Vài trăm năm nữa mà
“đào bới” ở đây thì có khối hiện vật! Chứ sao nữa, làng gốm Chu
Đậu từng rực rỡ hồi thế kỷ XV – XVI nay đã trở thành khu vực khảo cổ gốm sứ nổi
tiếng của nước ta. Nhưng tại sao lại cần vài trăm năm nữa khai quật lại, khi mà
bây giờ có thể giữ gìn lò gốm này, lưu giữ những sản phẩm này cho đời sau? Tại sao
các làng gốm không hình thành ngay một bảo tàng làng nghề? Trên thế giới đâu
thiếu những bảo tàng như thế!
Với quan niệm mới “du lịch là ngành công nghệ di sản”, những làng gốm này có thể phát triển lọai hình du lịch giới thiệu giá trị di sản văn hóa của địa phương. Những cơ sở sản xuất gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ là điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngòai nước, đối với người có nhu cầu tìm hiểu về gốm sứ Việt Nam. Giá trị của làng gốm không chỉ là sản phẩm chất lượng cao được xuất khẩu đi nhiều nơi trên thế giới, là sản phẩm mỹ nghệ có mặt khắp mọi miền đất nước, mà là làng gốm còn bảo tồn ngay trong nó tính truyền thống và tính độc đáo. Đó chính là di sản văn hóa phi vật thể - bên cạnh di sản vật thể là những sưu tập gốm sứ, sành, đất nung… đang được nhiều bảo tàng và nhà sưu tập lưu giữ. Sự kết hợp giữa bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể trong “du lịch và gốm sứ” thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống.
(báo Thanh Niên 18/11/2012)
Với quan niệm mới “du lịch là ngành công nghệ di sản”, những làng gốm này có thể phát triển lọai hình du lịch giới thiệu giá trị di sản văn hóa của địa phương. Những cơ sở sản xuất gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ là điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngòai nước, đối với người có nhu cầu tìm hiểu về gốm sứ Việt Nam. Giá trị của làng gốm không chỉ là sản phẩm chất lượng cao được xuất khẩu đi nhiều nơi trên thế giới, là sản phẩm mỹ nghệ có mặt khắp mọi miền đất nước, mà là làng gốm còn bảo tồn ngay trong nó tính truyền thống và tính độc đáo. Đó chính là di sản văn hóa phi vật thể - bên cạnh di sản vật thể là những sưu tập gốm sứ, sành, đất nung… đang được nhiều bảo tàng và nhà sưu tập lưu giữ. Sự kết hợp giữa bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể trong “du lịch và gốm sứ” thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa phát triển kinh tế và giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống.
(báo Thanh Niên 18/11/2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét