DI TÍCH “BÓT CATINA” TRONG CẢNH QUAN ĐƯỜNG ĐỒNG KHỞI VÀ VÙNG LÕI DI SẢN ĐÔ THỊ SÀI GÒN

 Trích tham luận HTKH  "BOT CATINAT - DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA TP.HCM"

1.    Đường Đồng Khởi: lịch sử hình thành và cảnh quan di sản đô thị

Trong công trình “Sài Gòn – Chở Lớn ký ức đô thị và con người”[1] của nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp, có một mục về “Đường Catinat đầu thế kỷ 20” khảo sát khá chi tiết về những công trình và chức năng của nó, một số nhân vật từng sinh sống, buôn bán, làm việc tại đó.

Theo công trình “Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu” của Trần Hữu Quang[2] Đây là một trong những con đường cổ xưa nhất của Sài Gòn, có từ trước khi Pháp đến chiếm thành phố này. Con đường này do chính quyền người Việt Nam làm từ xưa hay thậm chí có thể còn lâu hơn nữa. Nhìn trên các bản đồ cổ, ta có thể nhận thấy con đường này dẫn thẳng từ sông Sài Gòn vào thành Gia Định (khi đó còn là thành Bát Quát hay thành Quy).

Sau năm 1859 con đường này chỗ rộng chỗ hẹp, rải đá dăm đỏ, hai bên đường còn những đoạn mương nước ứ đọng hôi thối... Trước 1897 con đường này kéo dài đến tận đường Võ Thị Sáu hiện nay, nhưng từ 1897 thì đường Catinat chỉ còn từ bờ sông đến Nhà Thờ Đức Bà. Đây là con đường đầu tiên của Sài Gòn mà Pháp cho chỉnh trang để làm thành một đường phố của đô thị. Và từ lúc đó những trục đường chính khác đều được làm song song với con đường này theo hướng tây bắc – đông nam... Đường Catinat cũng là một trong những con đường đầu tiên của Sài Gòn được tráng nhựa.

Kề từ đầu thời Pháp thuộc cho đến tận ngày nay, con đường này luôn luôn là con một đường trung tâm mang tính chất phố thương mại và có những tiệm thuộc hạng sang nhất của cả thành phố Sài Gòn... Tại đây có những địa điểm nổi tiếng trong lịch sử Sài Gòn như khách sạn Continental, khách sạn Majestic, tiệm Givral, Brodard, nhà sách Xuân Thu, hành lang thương mại Eden...

Còn theo công trình “Đô thị Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh, khảo cổ học và bảo tồn di sản” của Nguyễn Thị Hậu[3], trục đường Đồng Khởi từ Nhà thờ Đức Bà đến Nhà hát Lớn là nơi tập trung nhiều công trình văn hóa lịch sử, kết nối trục đường Lê Duẩn với không gian công cộng rộng mở... là một phần quan trọng của “vùng lõi di sản đô thị”, có những giá trị độc đáo so với những khu vực khác. Con đường Đồng Khởi được xếp vào loại hình di sản Cảnh quan đô thị, cùng với các tuyến đường quanh đó như Lê Duẩn, Nguyễn Huệ - Lê Lợi – Tôn Đức Thắng... Tuy nhiên từ khoảng 2010 khu vực này đã biến đổi nghiêm trọng.

Có thể kể đến những công trình di sản trên đường Đồng Khởi đã biến đổi hoặc không còn nữa: Hai tòa nhà lớn là Metropolitan góc Đồng Khởi – Nguyễn Du cùng với Diamon plaza bên đường Lê Duẩn đã làm thu hẹp cảnh quan quảng trường Công xã Paris và Nhà thờ Đức Bà, không gian khu vực này trở nên chật hẹp. Công viên Chi Lăng xanh mát như một “vườn treo” với các quán cà phê, là không gian công cộng, một “chiếu nghỉ” trên con đường đi bộ Đồng Khởi cũng bị biến đổi trở thành “mặt tiền” của công trình hình khối đồ sộ là Trung tâm thương mại Vincom.

 Khu hành lang thương mại Eden biến mất cùng những thương hiệu nổi tiếng như Givral, La Pagoda, nhà sách ngoại văn Xuân Thu, rạp phim Eden... Công viên Lam Sơn trước Nhà hát thành phố (cũng là một “chiếu nghỉ”) như một khu vườn nhỏ bao bọc bởi những hàng cây cao vút nhưng cũng biển đổi do hàng cây bị chặt, bùng binh Cây liễu trên đường Nguyễn Huệ kế đó cũng không còn. Khu chung cư cổ góc Đồng Khởi – Lê Thánh Tôn được xây mới và trở thành một phần của Ủy ban nhân dân TP.

Nhiều công trình mới, cao tầng, kiểu dáng hiện đại đã hiện diện trên con đường cổ xưa nhất của thành phố. May mắn là đến nay còn vài ngôi nhà phố, Nhà hát thành phố, vài khách sạn như Continental, Majestic, vài công trình khác như “Dinh Thượng thư” góc Lý Tự Trọng – Đồng Khởi, và “bót Catinat” số 164 Đồng Khởi. Nhưng cả con đường không còn là một tổng thể thống nhất về cảnh quan và kiến trúc như xưa.

Hiện trạng khu trung tâm TP. Hồ Chí Minh phản ánh xung đột điển hình giữa phát triển và bảo tồn di sản ở vùng lõi di sản đô thị Sài Gòn. Chính vì vậy, việc xếp hạng để có thể bảo tồn và phát huy giá trị một cách hiệu quả cho công trình “Bót Catinat” tại 164 Đồng Khởi càng có ý nghĩa quan trọng trong việc gìn giữ di sản văn hóa đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh.

Hình 1. Vị trí công trình (Nguồn: https://www.bookingservice.com.vn/khu-dat-vang-164-dong-khoi-sap-duoc-giai-cuu-.html )

2. Những giá trị cơ bản của công trình “Bót Catinat” tại 164 Đồng Khởi

2.1 Giá trị kiến trúc – cảnh quan

Bót Catinat nay là trụ sở của Sở Văn hoá – Thể thao TP. Hồ Chí Minh toạ lạc tại 164 Đồng Khởi (Q.1) nay thuộc phường Bến Nghé, nằm ngay đầu phía bắc đường Đồng Khởi (đường Catinat xưa), góc giao Nguyễn Du (xưa là Taberd), bắt đầu từ Quảng trường Công xã Paris phía trước Nhà thờ Đức Bà và Bưu điện TP. HCM, hướng xuống sông Sài Gòn đến Bạch Đằng, đường Tôn Đức Thắng.

Vị trí này với 3 mặt tiền Nguyễn Du, Đồng Khởi và Lý Tự Trọng, mặt còn lại giáp với trường Trần Đại Nghĩa, diện tích 9.800m2, thuộc khu vực “đất vàng” tại trung tâm thành phố[4], trên trục đường có các công trình có giá trị lịch sử - văn hoá và một số công trình hiện đại được coi là “điểm nhấn” của khu vực trung tâm.

Từ góc độ di sản kiến trúc, có thể nói di tích Bót Catinat là một trường hợp tiêu biểu của kiến trúc công sở thuộc địa thực dụng – thích nghi khí hậu, vừa giữ chức năng hành chính, vừa gắn với lịch sử đô thị đầy biến động. Giá trị lớn nhất không nằm ở “hình thức mỹ lệ”, mà ở tầng ký ức và cấu trúc gắn kết với cảnh quan đô thị Đồng Khởi. Đồng Khởi là “đường di sản” tập trung dày đặc công trình biểu tượng (Nhà hát Thành phố, Dinh Thượng thư, Continental, Majestic...). Công trình 164 Đồng Khởi nằm ở vị trí mốc mở đầu của trục, góp phần giữ đường gãy khối thấp – trung tầng ở đầu phố để tôn tầm nhìn về cụm Nhà thờ Đức Bà – Bưu điện. Việc giữ hình thái lộ giới, cao độ khối tích, và khoảng lùi tại 164 Đồng Khởi vì vậy có tác dụng cảnh quan đô thị vượt ra ngoài bản thân tòa nhà.

Hình 2. Một công trình di sản giữa “rừng” công trình hiện đại.

Nguôn:https://baodautu.vn/batdongsan/tai-sao-dai-gia-ngoai-bo-chay-khoi-dat-vang-d25422.html

2.2 Giá trị Lịch sử – ký ức đô thị

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Hiệp dựa vào thống kê Niên giám và nghiên cứu nhiều nguồn tư liệu, đã cho biết công trình tại 164 Catinat khởi dựng 1881, ban đầu (1905 – 1906) dùng làm nơi thu ngân địa phương (Recette locale). Từ 1907 – 1917 là nơi ông bà Descourtis – thâu ngân đặc biệt – tọa lạc. Từ 1912 trở đi là Kho bạc, Nha ngân khố (Trésor public). Sau này tòa nhà ngân khố trở thành bót cảnh sát của an ninh (La surete) sau khi Kho bạc mới được xây dựng trên đường Charner (đường Nguyễn Huệ). Kế bên số 164 Catinat là số 162, theo Niên giám 1905, 1906 là Cadastreet topographie (Nhà Địa dư), đến 1912 là Commissariat central de police (Trụ sở trung ương cảnh sát) do ông M. Lecoeur lãnh đạo[5].

Theo nhà nghiên cứu Tim Doling - tác giả một cuốn sách hướng dẫn du lịch di sản TP. Hồ Chí Minh[6] được nhiều người tìm đọc:

Năm 1917, trụ sở cảnh sát này được mở rộng đến số 164 phố Catinat, nơi sau này trở thành Sở Cảnh sát và Sở An ninh. Năm 1933, những kế toán viên cuối cùng được chuyển khỏi số 166 phố Catinat và toàn bộ khu nhà (162, 164 và 166) được xây dựng lại theo hình dạng hiện tại thành trụ sở Sở An ninh tại số 164 phố Catina.

 Từ 1954 – 1975 nơi đây nổi tiếng là một nơi tàn bạo đến đáng sợ; người ta nói rằng nhiều tù nhân bị giam giữ trong các phòng giam này đã bị tra tấn trước khi được chuyển đến nơi ở lâu dài hơn là Maison centrale (Nhà tù Trung tâm) trên đường La Grandière, nay là đường Lý Tự Trọng. Nằm rất gần Nhà thờ Chính tòa, Bót Catinat được những tù nhân bất hạnh mô tả là "Địa ngục bên cạnh thiên đường". Sau năm 1975, một tấm biển bên ngoài lối vào chính của tòa nhà cho chúng ta biết (bằng tiếng Việt) rằng ngay sau Cách mạng Tháng Tám, lá cờ Việt Minh đã tung bay trên Bót Catinat từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 23 tháng 9 năm 1945, khi Pháp, với sự hỗ trợ của Anh, tái chiếm các tòa nhà công cộng ở Sài Gòn. Sau đó, Bót Catinat tiếp tục chức năng ban đầu của nó[7].

Từ sau 1975 toà nhà là trụ sở của Sở Văn hoá – Thể thao TP. Hồ Chí Minh.

Hiện nay sự biến đổi, mất mát nhiều công trình trên đường Đồng Khởi và những con đường ở khu vực trung tâm đã làm mất đi những di sản vật thể gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử, văn hóa một thời. Nó cũng làm suy giảm giá trị văn hóa phi vật thể của khu vực này: đó là sinh hoạt cộng đồng ở vỉa hè, công viên gồm buôn bán, giao tiếp, giải trí, dạo chơi đi bộ... tạo nên “hồn đô thị” đặc trưng của từng thành phố. Từ đó, một phần “ký ức đô thị” Sài Gòn dần biến mất, để lại biết bao sự tiếc nuối.

Tuy không đẹp như các di sản khác trên đường Đồng Khởi, nhưng công trình 164 Đồng Khởi đã trở thành một phần ký ức lịch sử – chính trị của thành phố. Cùng với nhiều công trình lịch sử - văn hóa khác trên con đường Đồng Khởi góp phần tạo nên một “vùng ký ức đô thị” Sài Gòn. Dù vậy nhưng cho đến nay công trình “Bót Catina 164 Đồng Khởi” chưa được xếp hạng di tích của TP. HCM.

Khu “đất vàng” này từng quy hoạch tái phát triển (tổ hợp thương mại – khách sạn), tuy chưa thực hiện nhưng cho đến nay khu vực này vẫn có giá trị về bất động sản thuộc hàng cao nhất thành phố, luôn là “đích đến” của nhiều nhà đầu tư địa ốc. Vì vậy, trước hết cần khẩn tập hợp, nghiên cứu hồ sơ để xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp thành phố cho công trình này, bảo tồn và phát huy giá trị theo định hướng giữ công năng “công sở” của công trình.

NGUYỄN THỊ HẬU

[1] Nguyễn Đức Hiệp, 2016. Sài Gòn Chợ Lớn ký ức đô thị và con người. NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

[2] Trần Hữu Quang, 2012. Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu. NXB Tổng hợp TPHCM, tr.34 -37

[3] Nguyễn Thị Hậu, 2019 (tái bản). Đô thị Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh, khảo cổ học và bảo tồn di sản. NXB Tổng hợp TPHCM, tr. 88-93

[6] Tim Doling, 2019. Khám phá Sài Gòn-Chợ Lớn – Di sản biến mất của Thành phố Hồ Chí Minh (NXB Thế Giới, Hà Nội, 2019)

GIÁ TRỊ DI SẢN ÓC EO - BA THÊ TỪ GÓC NHÌN KHẢO CỔ HỌC CỘNG ĐỒNG

 Đặt vấn đề

Khu di tích óc Eo – Ba Thê (huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang) thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ của Việt Nam). Đây cũng là vùng đất thuộc lãnh thổ của vương quốc cổ Phù Nam và có thể coi là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học từ 1944 đến nay, đặc biệt giai đoạn 2017 – 2020, đã chứng minh trong thời kỳ tồn tại của vương quốc cổ Phù Nam (từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ VI – VII). Khu vực trung tâm Óc Eo – Ba Thê là một trong những cảng thị quan trọng và là một trung tâm tôn giáo lớn, thể hiện bằng hàng chục di tích kiến trúc và khối lượng lớn các loại hình di vật nhiều chất liệu. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành xây dựng hồ sơ đề cử Di sản thế giới cho Khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang, Việt Nam).

Từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, bài viết tham góp về những giá trị của khu di tích Óc Eo – Ba Thê cũng như đề xuất một số giải pháp gắn với vai trò cộng đồng, góp phần cho hồ sơ đề cử được đầy đủ, toàn diện.


2. Giá trị di sản Óc Eo - Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng

Từ góc nhìn của khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ là một di tích khảo cổ học quốc gia đặc biệt, mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc đối với lịch sử vùng đất Nam bộ, cộng đồng địa phương và sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dưới đây là phân tích các giá trị của di sản Óc Eo – Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng:

2.1 Giá trị nhận diện bản sắc văn hóa vùng miền

Khu di tích Óc Eo – Ba Thê (An Giang) là minh chứng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một nền văn minh cổ của vương quốc Phù Nam tại vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ I đến VII SCN. Từ cuộc khai quật năm 1944 của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại cánh đồng Óc Eo (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) đến nay, bằng chứng khảo cổ học đã cho biết đô thị cổ Óc Eo - Ba Thê là một tổng thể của các chức năng: trung tâm đô thị và dân cư gắn liền với hoạt động thương mại qua hệ thống thương cảng ven biển; trung tâm tôn giáo lớn trong sự dung hợp văn hóa Phật giáo và Hindu giáo mang đậm ảnh hưởng từ nền văn minh Ấn Độ[1]. Sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, nền văn hóa này cùng cộng đồng dân cư vẫn để lại dấu tích đến vài thế kỷ sau

Ở vùng đất Nam bộ, trước thời kỳ vương quốc Phù Nam, từ thời tiền sơ sử (niên đại khoảng 2500 – 2000 năm cách ngày nay) đã hiện diện “cảng thị sơ khai” Cần Giờ ở ven biển Đông Nam bộ. Đặc trưng của cảng thị Cần Giờ là kinh tế giao thương mạnh mẽ với Đông Nam Á và Ấn Độ. Ngay sau đó đô thị - cảng thị Óc Eo hình thành và phát triển ở miền Tây Nam bộ. Sự ra đời của những cảng thị cổ tại vùng đất Nam bộ phản ánh đặc trưng kinh tế nổi bật: phát triển giao thương rộng rãi bằng đường biển và đường sông; đặc trưng văn hóa nổi bật: văn hóa sông nước cởi mở, phóng khoáng, linh hoạt. Cho đến nay, vùng đất Nam bộ vẫn duy trì và phát triển nhiều yếu tố kinh tế - văn hóa sông nước[2].

Khảo cổ học góp phần giải thích nhiều yếu tố lịch sử - văn hóa, kể lại quá khứ và giúp cộng đồng hiểu rằng quá khứ của họ không bị "đóng băng trong viện bảo tàng" bằng những hiện vật, mà hiện diện trong chính cảnh quan, lối sống, tập quán... mà cộng đồng đang duy trì, góp phần hình thành bản sắc văn hóa địa phương.

2.2 Giá trị giáo dục và truyền cảm hứng cho cộng đồng:

Từ sau năm 1975, trong các cuộc khai quật khảo cổ học tại khu vực, cộng đồng địa phương đều có cơ hội tham gia khai quật. Thông qua đó, người dân được cung cấp hiểu biết về di tích khảo cổ, nâng cao nhận thức về lịch sử quê hương. Các chương trình tham quan trưng bày di sản tại Nhà trưng bày Văn hóa Óc Eo, Bảo tàng tỉnh An Giang, việc bảo tồn nhiều di tích Óc Eo tại chỗ (site museum)... Cư dân địa phương – đặc biệt là thanh thiếu niên – có cơ hội tiếp cận với khảo cổ học một cách sinh động. Từ đó lịch sử địa phương – qua đó là lịch sử vùng đất Nam bộ - được truyền đạt cụ thể, dễ hiểu, khơi gợi lòng yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ di sản, góp phần nâng cao dân trí và khả năng tham gia vào các chính sách văn hóa địa phương để “phát triển bền vững”.

2.3 Giá trị phát triển kinh tế – du lịch bền vững

Trong bối cảnh rộng của tỉnh An Giang, ở các khu vực Tri Tôn, Tịnh Biên và Châu Đốc có nhiều tuyến điểm du lịch đã trở nên nổi tiếng, đa dạng về loại hình dịch vụ, góp phần cùng với Khu di tích Óc Eo - Ba Thê phát triển hoạt động du lịch. Với quan điểm du lịch như một nguồn lực để phát triển kinh tế địa phương, việc đầu tư để phát triển du lịch văn hóa đang được khuyến khích trong trường hợp Khu di tích Óc Eo - Ba Thê nói riêng, tỉnh An Giang nói chung. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang cũng như chiến lược nâng tầm khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê trở thành Di sản Văn hóa Thế giới thì việc quảng bá và thu hút nguồn khách du lịch trong nước và quốc tế là việc làm rất cần thiết ngay trong giai đoạn chuẩn bị hiện nay.

Di sản khảo cổ Óc Eo – Ba Thê có tiềm năng trở thành trục du lịch văn hóa – khảo cổ học – sinh thái, kết hợp với cảnh quan tự nhiên núi Ba Thê, hệ thống sông ngòi cổ, cánh đồng lúa, khu cư trú của cộng đồng hiện tại... Việc ứng dụng mô hình khảo cổ học cộng đồng, ví dụ như "du lịch khảo cổ cùng cư dân địa phương", hay "cùng cộng đồng khám phá đô thị cổ Óc Eo”... sẽ góp phần mang lại nhiều lợi ích: Tạo sinh kế mới (dịch vụ du lịch) cho cộng đồng; Cộng đồng hiểu rõ giá trị di sản đối với đời sống sẽ tránh việc khai thác quá mức và “thương mại hóa” di sản; Từ sự hiểu biết văn hóa cổ và để đáp ứng nhu cầu của dịch vụ du lịch, cộng đồng sẽ bảo tồn cảnh quan tự nhiên, tái hiện những yếu tố văn hóa truyền thống như ẩm thực, lễ hội... giúp khách du lịch có trải nghiệm sâu sắc.

2.4 Giá trị trong quản lý di sản có sự tham gia của cộng đồng

Di sản khảo cổ thường bị xem là "vô hình" trong mắt cư dân vì nằm dưới lòng đất hoặc khó tiếp cận. Nhưng khi cộng đồng được tham gia khảo sát, khai quật, bảo tồn, họ sẽ cảm thấy đây là tài sản chung của mình. Cách tiếp cận của khảo cổ học cộng đồng thúc đẩy “dân chủ hóa tri thức”, sự chia sẻ quyền quản lý di sản giữa chính quyền, nhà khoa học và người dân, từ đó nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, hạn chế sự can thiệp làm tổn hại hoặc phá hủy di tích nhân danh “phát triển” bằng các công trình hiện đại. Đây là sự kết hợp hai phương thức “bảo tồn từ dưới lên - bottom up” và “bảo tồn từ trên xuống – top down” để di sản văn hóa thực sự “sống cùng” cộng đồng và vì cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội lâu dài, ổn định và bền vững cho khu địa phương nói riêng, cho khu vực Nam bộ nói chung.

2.5 Giá trị kết nối liên vùng và liên văn hóa

Di sản Óc Eo không phải là một điểm riêng lẻ mà thuộc về một mạng lưới di tích rộng lớn ở miền Tây Nam Bộ, cho thấy sự liên kết văn hóa – thương mại cổ xưa trong toàn vùng Nam bộ với các khu vực như Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Hoa[3]. Qua khảo cổ học cộng đồng, cư dân có thể hiểu được vị thế và vai trò của quê hương mình trong lịch sử giao lưu quốc tế cổ đại, từ đó phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của địa phương trong tiến trình phát triển hiện đại.

Như vậy, từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ có giá trị khoa học đơn thuần mà còn là một nguồn lực văn hóa sống động để phát triển bản sắc, giáo dục, sinh kế và năng lực cộng đồng. Việc tiếp cận theo hướng cộng đồng không chỉ làm "sống lại" di sản mà còn trao quyền cho cộng đồng để họ trở thành chủ thể trong bảo tồn và phát triển di sản ấy. Khảo cổ học cộng đồng có ý nghĩa to lớn trong việc làm nổi bật tính xác thực và toàn vẹn của di tích Óc Eo – Ba Thê. Thông qua sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các hoạt động khảo cứu, truyền thông, giáo dục di sản và bảo vệ hiện vật, giá trị văn hóa – lịch sử của di tích không chỉ được bảo tồn về mặt vật thể mà còn được tiếp nối dưới dạng sống động trong đời sống xã hội đương đại.

Trích một phần báo cáo tham luận tại HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ: Tham vấn giá trị nổi bật Toàn cầu và tiêu chí đề cử Di sản thế giới cho Khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang, Việt Nam)


[1] Louis Malleret, 2021. Khảo cổ học đồng bằng sông Mekong, tập 2: Văn minh vật chất óc Eo. Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

[2] Nguyễn Thị Hậu, 2024. Văn hóa Nam bộ nhìn từ các nền văn hóa khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học số 5.2024 (251). Tr. 81 - 91

[3] Bùi Minh Trí, Nguyễn Gia Đối, Nguyễn Khánh Trung Kiên (đồng chủ biên), 2022. Văn hóa Óc Eo những phát hiện mới khảo cổ học tại di tích Óc Eo, Ba Thê và Nền Chùa 2-17 – 2020. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Hình: Cánh đồng Óc Eo (An Giang)


Tại thị trấn Óc Eo (An Giang)





GỐM QUẢNG ĐỨC – MỘT DÒNG GỐM ĐỘC ĐÁO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA


Bảo tàng lịch sử - văn hóa trường Đại học khoa học xã hội nhân văn TP.HCM có một số hiện vật gốm Quảng Đức được sưu tập từ nhiều nguồn. Nổi bật trong số đó là 04 chóe gốm do ông Võ Văn Hưng (Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai cũ) trao tặng năm 2023. Các chóe còn nguyên vẹn (1 chiếc miệng vỡ một chút), có màu men nâu còn in nhiều dấu vết vỏ sò, miệng loe có vành miệng, cổ đứng, vai hơi phình và thân thon dần vào đáy. Trên vai chóe có 4 tai nhỏ. Kích thước khá đồng nhất: Cao từ 50,3 cm đến 53,7 cm, đường kính miệng từ 16,0 cm đến 18,4 cm, đường kính đáy từ 14,7 cm đến 17,0 cm. Đây là loại hình tiêu biểu của Gốm Quảng Đức. Nhân có sưu tập này chúng tôi đã có đợt khảo sát vào tháng 5/2025 tại thôn Quảng Đức, xã An Thạch huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên cũ).

Gốm Quảng Đức (Phú Yên) là một dòng gốm độc đáo bởi nguyên liệu, kỹ thuật nung và hình thức sản phẩm khi hoàn chỉnh. Gốm Quảng Đức phổ biến nhất là loại hình chóe và bình vôi, ngoài ra còn nhiều sản phẩm đất nung dân dụng khác. Có thể nhận ra Gốm Quảng Đức ở màu men nâu sắt (chóe) hoặc hỏa biến xanh lam, đỏ huyết (bình vôi), đặc biệt những dấu in của vỏ sò bị nung cháy ngay trên bề mặt sản phẩm. Một số công trình nghiên cứu bước đầu về Gốm Quảng Đức đã nhìn nhận, vỏ sò có vai trò rất đặc biệt trong quá trình nung gốm Quảng Đức và trở thành đặc trưng kỹ thuật của dòng gốm này, bởi vì vỏ sò có vai trò là vật liệu truyền thống, trong quy trình nung gốm, và tạo nên đặc trưng mỹ thuật sản phẩm.

Khảo sát và nghiên cứu nhiều sưu tập gốm Quảng Đức với hàng trăm sản phẩm chủ yếu là chóe và bình vôi nhiều kích thước, qua trao đổi về kỹ thuật sản xuất với một số nghệ nhân làm gốm và nhà sưu tập, chúng tôi nhận biết đặc trưng cơ bản của Gốm Quảng Đức bắt đầu từ một loại nguyên liệu độc đáo tham gia vào quá trình sản xuất, đó là vỏ sò (mà người địa phương cho rằng đó là loại sò huyết đánh bắt từ đầm Ô Loan – một đặc sản địa phương).

Vỏ sò biển được sử dụng trong quá trình nung như một loại chất đệm – kỹ thuật hiếm thấy ở các dòng gốm khác. Trong quá trình xếp sản phẩm vào lò nung, người thợ lót vỏ sò giữa các sản phẩm để tránh chúng dính vào nhau khi nhiệt độ cao làm men chảy. Vỏ sò có khả năng chịu nhiệt tốt, tạo lớp đệm cách nhiệt tự nhiên, giúp phân bố đều nhiệt lượng trong lò. Khi nung, vỏ sò tạo nên hiệu ứng men tự nhiên, loang khói và hằn dấu lên bề mặt sản phẩm – trở thành một “dấu ấn nhận diện” riêng của gốm Quảng Đức.

Gốm Quảng Đức được tạo bề mặt thẩm mỹ độc đáo: từ đất, lửa, vỏ sò. Khi nung, tro vỏ sò (chứa canxi cacbonat - CaCO₃) phản ứng với thành phần men gốm, tạo nên vệt loang, chảy men tự nhiên hoặc để lại dấu hằn của vỏ sò trên bề mặt. Gốm không tráng men công nghiệp mà tận dụng hiệu ứng nhiệt – khói – tro của quá trình nung tạo ra lớp men mộc mạc có “hoa văn” là dấu tích vỏ sò, tạo nên mỗi sản phẩm đều là “độc bản”. Đây là đặc điểm “thủ pháp mỹ thuật ngẫu hứng” của gốm Quảng Đức, tạo nên vẻ mộc mạc, cổ xưa và không cái nào giống cái nào. Giá trị của mỗi sản phẩm trở nên độc đáo hơn, giá trị cả dòng gốm cao hơn do tính khác biệt với các dòng gốm khác.

Chính yếu tố kỹ thuật này đã làm cho gốm Quảng Đức mang giá trị bản địa và tri thức dân gian: Người thợ Quảng Đức dùng nguồn vỏ sò từ biển đầm Ô Loan, một nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong vùng. Việc sử dụng vỏ sò thể hiện tri thức thủ công dân gian, tận dụng tài nguyên địa phương, có sự giao thoa giữa yếu tố “biển” và “đất”, thể hiện “văn hoá biển” trong một đời sống của cư dân vùng ven biển. Gốm Quảng Đức mang giá trị xã hội – cộng đồng vì đây là nghề truyền thống gắn với sinh kế của cư dân địa phương. Nếu được phục hồi và phát triển sẽ là nguồn tài nguyên dồi dào cho du lịch, giáo dục văn hóa và nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, từ góc độ kỹ thuật có một số vấn đề đặt ra nhưng chưa được giải đáp thỏa đáng. Đó là: Vỏ sò có vai trò là những “con kê”/”bao nung” tự nhiên chống dính giữa các sản phẩm trong quá trình nung ở nhiệt độ cao. Vậy tỷ lệ thế nào là “vừa đủ” để tạo “hỏa biến” và còn lại dấu tích trên bề mặt đồ gốm? Liệu số lượng vỏ sò có thể nhiều hơn và trở thành vôi - một “sản phẩm phụ” của quá trình nung gốm? Và có phải từ sự “ngẫu nhiên” mà tạo nên những màu men “hoả biến”? Lúc đầu, các sản phẩm còn dính nhiều vỏ sò có phải là “thứ phẩm” nhưng rồi do độc bản mà trở thành độc đáo, rồi được ghi nhận cách tạo ra sản phẩm mới để trở thành chính phẩm?

Những vấn đề này cần được làm rõ để có thể đánh giá giá trị gốm Quảng Đức toàn diện hơn, đặc biệt là để quy trình kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức được “chính thức hóa” cùng những kiến giải khoa học. Từ đó nghiên cứu phục dựng quá trình sản xuất gốm Quảng Đức, “truyền nghề” một cách bài bản. Có vậy mới duy trì và phát triển làng nghề như một di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của địa phương.

Có thể nói hiện nay gốm Quảng Đức đang “biến mất” vì tại địa phương không còn nghề sản xuất gốm. Gần như không còn thế hệ nghệ nhân nào thực hành trọn vẹn kỹ thuật truyền thống, thiếu lớp kế thừa; chính quyền chưa có chính sách cụ thể hỗ trợ gìn giữ nghề, sự cạnh tranh với đồ gốm công nghiệp, các loại hình truyền thống như bình, chậu... được làm bằng chất liệu khác, thị trường tiêu thụ thu hẹp... Quan trọng nhất là tình trạng mất mát tri thức dân gian, nghề truyền thống nếu không có can thiệp bảo tồn khẩn cấp.

Cũng trong đợt khảo sát này, chúng tôi nhận thấy các lò gốm sản xuất theo kỹ thuật truyền thống không còn nữa, các hộ làm gốm đã thay đổi việc sản xuất gốm bằng sản xuất chậu đúc bằng xi măng. Tuy nhiên tại khu vực “làng gốm” vẫn còn nhận ra dấu tích của một số lò gốm thủ công. Đó là những gò đất tự nhiên cao hơn mặt bằng chung khoảng 1,5 – 2m, thấp dần về phía bờ sông. Dấu tích mảnh gốm, mảnh sành, những phế phẩm dày đặc khắp gò đất, thậm chí vẫn còn vài hàng gạch là dấu tích vách lò nung.

Chúng tôi đã đề nghị Bảo tàng Phú Yên tổ chức khai quật di tích các lò gốm cổ này, đồng thời cần đề xuất Đề án nghiên cứu phục hồi kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức và bảo tồn di sản làng nghề gốm Quảng Đức, với mục tiêu cơ bản là:

- Khảo cứu, hệ thống hóa các kỹ thuật sản xuất gốm truyền thống Quảng Đức (tạo hình, phối liệu, nung, hoa văn, men màu…).

- Phục dựng các quy trình kỹ thuật truyền thống đã thất truyền hoặc đang mai một.

- Đề xuất mô hình bảo tồn làng nghề gắn với đào tạo truyền nghề và phát triển kinh tế văn hóa địa phương.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu và tư liệu hóa các tri thức nghề truyền thống.

Với những giá trị độc đáo, gốm Quảng Đức xứng đáng là “di sản văn hóa” của tỉnh Phú Yên và trong hợp lưu các dòng gốm Việt Nam nói chung.

Nguyễn Thị Hậu, Trường Đại học KHXHNV. TPHCM









CHÚC MỪNG GIÁNG SINH và NĂM MỚI 2026

  CÁNH NHAU 15 NĂM VÀ KHOẢNG GẦN CHỤC KÝ, HUHU :)