GIÁ TRỊ DI SẢN ÓC EO - BA THÊ TỪ GÓC NHÌN KHẢO CỔ HỌC CỘNG ĐỒNG

 Đặt vấn đề

Khu di tích óc Eo – Ba Thê (huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang) thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ của Việt Nam). Đây cũng là vùng đất thuộc lãnh thổ của vương quốc cổ Phù Nam và có thể coi là trung tâm của nền văn hóa Óc Eo. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học từ 1944 đến nay, đặc biệt giai đoạn 2017 – 2020, đã chứng minh trong thời kỳ tồn tại của vương quốc cổ Phù Nam (từ đầu Công Nguyên đến thế kỷ VI – VII). Khu vực trung tâm Óc Eo – Ba Thê là một trong những cảng thị quan trọng và là một trung tâm tôn giáo lớn, thể hiện bằng hàng chục di tích kiến trúc và khối lượng lớn các loại hình di vật nhiều chất liệu. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành xây dựng hồ sơ đề cử Di sản thế giới cho Khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang, Việt Nam).

Từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, bài viết tham góp về những giá trị của khu di tích Óc Eo – Ba Thê cũng như đề xuất một số giải pháp gắn với vai trò cộng đồng, góp phần cho hồ sơ đề cử được đầy đủ, toàn diện.


2. Giá trị di sản Óc Eo - Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng

Từ góc nhìn của khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ là một di tích khảo cổ học quốc gia đặc biệt, mà còn mang nhiều giá trị sâu sắc đối với lịch sử vùng đất Nam bộ, cộng đồng địa phương và sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dưới đây là phân tích các giá trị của di sản Óc Eo – Ba Thê từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng:

2.1 Giá trị nhận diện bản sắc văn hóa vùng miền

Khu di tích Óc Eo – Ba Thê (An Giang) là minh chứng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một nền văn minh cổ của vương quốc Phù Nam tại vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ I đến VII SCN. Từ cuộc khai quật năm 1944 của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại cánh đồng Óc Eo (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) đến nay, bằng chứng khảo cổ học đã cho biết đô thị cổ Óc Eo - Ba Thê là một tổng thể của các chức năng: trung tâm đô thị và dân cư gắn liền với hoạt động thương mại qua hệ thống thương cảng ven biển; trung tâm tôn giáo lớn trong sự dung hợp văn hóa Phật giáo và Hindu giáo mang đậm ảnh hưởng từ nền văn minh Ấn Độ[1]. Sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ, nền văn hóa này cùng cộng đồng dân cư vẫn để lại dấu tích đến vài thế kỷ sau

Ở vùng đất Nam bộ, trước thời kỳ vương quốc Phù Nam, từ thời tiền sơ sử (niên đại khoảng 2500 – 2000 năm cách ngày nay) đã hiện diện “cảng thị sơ khai” Cần Giờ ở ven biển Đông Nam bộ. Đặc trưng của cảng thị Cần Giờ là kinh tế giao thương mạnh mẽ với Đông Nam Á và Ấn Độ. Ngay sau đó đô thị - cảng thị Óc Eo hình thành và phát triển ở miền Tây Nam bộ. Sự ra đời của những cảng thị cổ tại vùng đất Nam bộ phản ánh đặc trưng kinh tế nổi bật: phát triển giao thương rộng rãi bằng đường biển và đường sông; đặc trưng văn hóa nổi bật: văn hóa sông nước cởi mở, phóng khoáng, linh hoạt. Cho đến nay, vùng đất Nam bộ vẫn duy trì và phát triển nhiều yếu tố kinh tế - văn hóa sông nước[2].

Khảo cổ học góp phần giải thích nhiều yếu tố lịch sử - văn hóa, kể lại quá khứ và giúp cộng đồng hiểu rằng quá khứ của họ không bị "đóng băng trong viện bảo tàng" bằng những hiện vật, mà hiện diện trong chính cảnh quan, lối sống, tập quán... mà cộng đồng đang duy trì, góp phần hình thành bản sắc văn hóa địa phương.

2.2 Giá trị giáo dục và truyền cảm hứng cho cộng đồng:

Từ sau năm 1975, trong các cuộc khai quật khảo cổ học tại khu vực, cộng đồng địa phương đều có cơ hội tham gia khai quật. Thông qua đó, người dân được cung cấp hiểu biết về di tích khảo cổ, nâng cao nhận thức về lịch sử quê hương. Các chương trình tham quan trưng bày di sản tại Nhà trưng bày Văn hóa Óc Eo, Bảo tàng tỉnh An Giang, việc bảo tồn nhiều di tích Óc Eo tại chỗ (site museum)... Cư dân địa phương – đặc biệt là thanh thiếu niên – có cơ hội tiếp cận với khảo cổ học một cách sinh động. Từ đó lịch sử địa phương – qua đó là lịch sử vùng đất Nam bộ - được truyền đạt cụ thể, dễ hiểu, khơi gợi lòng yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ di sản, góp phần nâng cao dân trí và khả năng tham gia vào các chính sách văn hóa địa phương để “phát triển bền vững”.

2.3 Giá trị phát triển kinh tế – du lịch bền vững

Trong bối cảnh rộng của tỉnh An Giang, ở các khu vực Tri Tôn, Tịnh Biên và Châu Đốc có nhiều tuyến điểm du lịch đã trở nên nổi tiếng, đa dạng về loại hình dịch vụ, góp phần cùng với Khu di tích Óc Eo - Ba Thê phát triển hoạt động du lịch. Với quan điểm du lịch như một nguồn lực để phát triển kinh tế địa phương, việc đầu tư để phát triển du lịch văn hóa đang được khuyến khích trong trường hợp Khu di tích Óc Eo - Ba Thê nói riêng, tỉnh An Giang nói chung. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang cũng như chiến lược nâng tầm khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê trở thành Di sản Văn hóa Thế giới thì việc quảng bá và thu hút nguồn khách du lịch trong nước và quốc tế là việc làm rất cần thiết ngay trong giai đoạn chuẩn bị hiện nay.

Di sản khảo cổ Óc Eo – Ba Thê có tiềm năng trở thành trục du lịch văn hóa – khảo cổ học – sinh thái, kết hợp với cảnh quan tự nhiên núi Ba Thê, hệ thống sông ngòi cổ, cánh đồng lúa, khu cư trú của cộng đồng hiện tại... Việc ứng dụng mô hình khảo cổ học cộng đồng, ví dụ như "du lịch khảo cổ cùng cư dân địa phương", hay "cùng cộng đồng khám phá đô thị cổ Óc Eo”... sẽ góp phần mang lại nhiều lợi ích: Tạo sinh kế mới (dịch vụ du lịch) cho cộng đồng; Cộng đồng hiểu rõ giá trị di sản đối với đời sống sẽ tránh việc khai thác quá mức và “thương mại hóa” di sản; Từ sự hiểu biết văn hóa cổ và để đáp ứng nhu cầu của dịch vụ du lịch, cộng đồng sẽ bảo tồn cảnh quan tự nhiên, tái hiện những yếu tố văn hóa truyền thống như ẩm thực, lễ hội... giúp khách du lịch có trải nghiệm sâu sắc.

2.4 Giá trị trong quản lý di sản có sự tham gia của cộng đồng

Di sản khảo cổ thường bị xem là "vô hình" trong mắt cư dân vì nằm dưới lòng đất hoặc khó tiếp cận. Nhưng khi cộng đồng được tham gia khảo sát, khai quật, bảo tồn, họ sẽ cảm thấy đây là tài sản chung của mình. Cách tiếp cận của khảo cổ học cộng đồng thúc đẩy “dân chủ hóa tri thức”, sự chia sẻ quyền quản lý di sản giữa chính quyền, nhà khoa học và người dân, từ đó nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, hạn chế sự can thiệp làm tổn hại hoặc phá hủy di tích nhân danh “phát triển” bằng các công trình hiện đại. Đây là sự kết hợp hai phương thức “bảo tồn từ dưới lên - bottom up” và “bảo tồn từ trên xuống – top down” để di sản văn hóa thực sự “sống cùng” cộng đồng và vì cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội lâu dài, ổn định và bền vững cho khu địa phương nói riêng, cho khu vực Nam bộ nói chung.

2.5 Giá trị kết nối liên vùng và liên văn hóa

Di sản Óc Eo không phải là một điểm riêng lẻ mà thuộc về một mạng lưới di tích rộng lớn ở miền Tây Nam Bộ, cho thấy sự liên kết văn hóa – thương mại cổ xưa trong toàn vùng Nam bộ với các khu vực như Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Hoa[3]. Qua khảo cổ học cộng đồng, cư dân có thể hiểu được vị thế và vai trò của quê hương mình trong lịch sử giao lưu quốc tế cổ đại, từ đó phát huy giá trị lịch sử - văn hóa của địa phương trong tiến trình phát triển hiện đại.

Như vậy, từ góc nhìn khảo cổ học cộng đồng, di sản Óc Eo – Ba Thê không chỉ có giá trị khoa học đơn thuần mà còn là một nguồn lực văn hóa sống động để phát triển bản sắc, giáo dục, sinh kế và năng lực cộng đồng. Việc tiếp cận theo hướng cộng đồng không chỉ làm "sống lại" di sản mà còn trao quyền cho cộng đồng để họ trở thành chủ thể trong bảo tồn và phát triển di sản ấy. Khảo cổ học cộng đồng có ý nghĩa to lớn trong việc làm nổi bật tính xác thực và toàn vẹn của di tích Óc Eo – Ba Thê. Thông qua sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các hoạt động khảo cứu, truyền thông, giáo dục di sản và bảo vệ hiện vật, giá trị văn hóa – lịch sử của di tích không chỉ được bảo tồn về mặt vật thể mà còn được tiếp nối dưới dạng sống động trong đời sống xã hội đương đại.

Trích một phần báo cáo tham luận tại HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ: Tham vấn giá trị nổi bật Toàn cầu và tiêu chí đề cử Di sản thế giới cho Khu di tích khảo cổ Óc Eo – Ba Thê (tỉnh An Giang, Việt Nam)


[1] Louis Malleret, 2021. Khảo cổ học đồng bằng sông Mekong, tập 2: Văn minh vật chất óc Eo. Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh

[2] Nguyễn Thị Hậu, 2024. Văn hóa Nam bộ nhìn từ các nền văn hóa khảo cổ. Tạp chí Khảo cổ học số 5.2024 (251). Tr. 81 - 91

[3] Bùi Minh Trí, Nguyễn Gia Đối, Nguyễn Khánh Trung Kiên (đồng chủ biên), 2022. Văn hóa Óc Eo những phát hiện mới khảo cổ học tại di tích Óc Eo, Ba Thê và Nền Chùa 2-17 – 2020. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Hình: Cánh đồng Óc Eo (An Giang)


Tại thị trấn Óc Eo (An Giang)





GỐM QUẢNG ĐỨC – MỘT DÒNG GỐM ĐỘC ĐÁO VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA


Bảo tàng lịch sử - văn hóa trường Đại học khoa học xã hội nhân văn TP.HCM có một số hiện vật gốm Quảng Đức được sưu tập từ nhiều nguồn. Nổi bật trong số đó là 04 chóe gốm do ông Võ Văn Hưng (Thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai cũ) trao tặng năm 2023. Các chóe còn nguyên vẹn (1 chiếc miệng vỡ một chút), có màu men nâu còn in nhiều dấu vết vỏ sò, miệng loe có vành miệng, cổ đứng, vai hơi phình và thân thon dần vào đáy. Trên vai chóe có 4 tai nhỏ. Kích thước khá đồng nhất: Cao từ 50,3 cm đến 53,7 cm, đường kính miệng từ 16,0 cm đến 18,4 cm, đường kính đáy từ 14,7 cm đến 17,0 cm. Đây là loại hình tiêu biểu của Gốm Quảng Đức. Nhân có sưu tập này chúng tôi đã có đợt khảo sát vào tháng 5/2025 tại thôn Quảng Đức, xã An Thạch huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên cũ).

Gốm Quảng Đức (Phú Yên) là một dòng gốm độc đáo bởi nguyên liệu, kỹ thuật nung và hình thức sản phẩm khi hoàn chỉnh. Gốm Quảng Đức phổ biến nhất là loại hình chóe và bình vôi, ngoài ra còn nhiều sản phẩm đất nung dân dụng khác. Có thể nhận ra Gốm Quảng Đức ở màu men nâu sắt (chóe) hoặc hỏa biến xanh lam, đỏ huyết (bình vôi), đặc biệt những dấu in của vỏ sò bị nung cháy ngay trên bề mặt sản phẩm. Một số công trình nghiên cứu bước đầu về Gốm Quảng Đức đã nhìn nhận, vỏ sò có vai trò rất đặc biệt trong quá trình nung gốm Quảng Đức và trở thành đặc trưng kỹ thuật của dòng gốm này, bởi vì vỏ sò có vai trò là vật liệu truyền thống, trong quy trình nung gốm, và tạo nên đặc trưng mỹ thuật sản phẩm.

Khảo sát và nghiên cứu nhiều sưu tập gốm Quảng Đức với hàng trăm sản phẩm chủ yếu là chóe và bình vôi nhiều kích thước, qua trao đổi về kỹ thuật sản xuất với một số nghệ nhân làm gốm và nhà sưu tập, chúng tôi nhận biết đặc trưng cơ bản của Gốm Quảng Đức bắt đầu từ một loại nguyên liệu độc đáo tham gia vào quá trình sản xuất, đó là vỏ sò (mà người địa phương cho rằng đó là loại sò huyết đánh bắt từ đầm Ô Loan – một đặc sản địa phương).

Vỏ sò biển được sử dụng trong quá trình nung như một loại chất đệm – kỹ thuật hiếm thấy ở các dòng gốm khác. Trong quá trình xếp sản phẩm vào lò nung, người thợ lót vỏ sò giữa các sản phẩm để tránh chúng dính vào nhau khi nhiệt độ cao làm men chảy. Vỏ sò có khả năng chịu nhiệt tốt, tạo lớp đệm cách nhiệt tự nhiên, giúp phân bố đều nhiệt lượng trong lò. Khi nung, vỏ sò tạo nên hiệu ứng men tự nhiên, loang khói và hằn dấu lên bề mặt sản phẩm – trở thành một “dấu ấn nhận diện” riêng của gốm Quảng Đức.

Gốm Quảng Đức được tạo bề mặt thẩm mỹ độc đáo: từ đất, lửa, vỏ sò. Khi nung, tro vỏ sò (chứa canxi cacbonat - CaCO₃) phản ứng với thành phần men gốm, tạo nên vệt loang, chảy men tự nhiên hoặc để lại dấu hằn của vỏ sò trên bề mặt. Gốm không tráng men công nghiệp mà tận dụng hiệu ứng nhiệt – khói – tro của quá trình nung tạo ra lớp men mộc mạc có “hoa văn” là dấu tích vỏ sò, tạo nên mỗi sản phẩm đều là “độc bản”. Đây là đặc điểm “thủ pháp mỹ thuật ngẫu hứng” của gốm Quảng Đức, tạo nên vẻ mộc mạc, cổ xưa và không cái nào giống cái nào. Giá trị của mỗi sản phẩm trở nên độc đáo hơn, giá trị cả dòng gốm cao hơn do tính khác biệt với các dòng gốm khác.

Chính yếu tố kỹ thuật này đã làm cho gốm Quảng Đức mang giá trị bản địa và tri thức dân gian: Người thợ Quảng Đức dùng nguồn vỏ sò từ biển đầm Ô Loan, một nguyên liệu tự nhiên sẵn có trong vùng. Việc sử dụng vỏ sò thể hiện tri thức thủ công dân gian, tận dụng tài nguyên địa phương, có sự giao thoa giữa yếu tố “biển” và “đất”, thể hiện “văn hoá biển” trong một đời sống của cư dân vùng ven biển. Gốm Quảng Đức mang giá trị xã hội – cộng đồng vì đây là nghề truyền thống gắn với sinh kế của cư dân địa phương. Nếu được phục hồi và phát triển sẽ là nguồn tài nguyên dồi dào cho du lịch, giáo dục văn hóa và nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, từ góc độ kỹ thuật có một số vấn đề đặt ra nhưng chưa được giải đáp thỏa đáng. Đó là: Vỏ sò có vai trò là những “con kê”/”bao nung” tự nhiên chống dính giữa các sản phẩm trong quá trình nung ở nhiệt độ cao. Vậy tỷ lệ thế nào là “vừa đủ” để tạo “hỏa biến” và còn lại dấu tích trên bề mặt đồ gốm? Liệu số lượng vỏ sò có thể nhiều hơn và trở thành vôi - một “sản phẩm phụ” của quá trình nung gốm? Và có phải từ sự “ngẫu nhiên” mà tạo nên những màu men “hoả biến”? Lúc đầu, các sản phẩm còn dính nhiều vỏ sò có phải là “thứ phẩm” nhưng rồi do độc bản mà trở thành độc đáo, rồi được ghi nhận cách tạo ra sản phẩm mới để trở thành chính phẩm?

Những vấn đề này cần được làm rõ để có thể đánh giá giá trị gốm Quảng Đức toàn diện hơn, đặc biệt là để quy trình kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức được “chính thức hóa” cùng những kiến giải khoa học. Từ đó nghiên cứu phục dựng quá trình sản xuất gốm Quảng Đức, “truyền nghề” một cách bài bản. Có vậy mới duy trì và phát triển làng nghề như một di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của địa phương.

Có thể nói hiện nay gốm Quảng Đức đang “biến mất” vì tại địa phương không còn nghề sản xuất gốm. Gần như không còn thế hệ nghệ nhân nào thực hành trọn vẹn kỹ thuật truyền thống, thiếu lớp kế thừa; chính quyền chưa có chính sách cụ thể hỗ trợ gìn giữ nghề, sự cạnh tranh với đồ gốm công nghiệp, các loại hình truyền thống như bình, chậu... được làm bằng chất liệu khác, thị trường tiêu thụ thu hẹp... Quan trọng nhất là tình trạng mất mát tri thức dân gian, nghề truyền thống nếu không có can thiệp bảo tồn khẩn cấp.

Cũng trong đợt khảo sát này, chúng tôi nhận thấy các lò gốm sản xuất theo kỹ thuật truyền thống không còn nữa, các hộ làm gốm đã thay đổi việc sản xuất gốm bằng sản xuất chậu đúc bằng xi măng. Tuy nhiên tại khu vực “làng gốm” vẫn còn nhận ra dấu tích của một số lò gốm thủ công. Đó là những gò đất tự nhiên cao hơn mặt bằng chung khoảng 1,5 – 2m, thấp dần về phía bờ sông. Dấu tích mảnh gốm, mảnh sành, những phế phẩm dày đặc khắp gò đất, thậm chí vẫn còn vài hàng gạch là dấu tích vách lò nung.

Chúng tôi đã đề nghị Bảo tàng Phú Yên tổ chức khai quật di tích các lò gốm cổ này, đồng thời cần đề xuất Đề án nghiên cứu phục hồi kỹ thuật sản xuất gốm Quảng Đức và bảo tồn di sản làng nghề gốm Quảng Đức, với mục tiêu cơ bản là:

- Khảo cứu, hệ thống hóa các kỹ thuật sản xuất gốm truyền thống Quảng Đức (tạo hình, phối liệu, nung, hoa văn, men màu…).

- Phục dựng các quy trình kỹ thuật truyền thống đã thất truyền hoặc đang mai một.

- Đề xuất mô hình bảo tồn làng nghề gắn với đào tạo truyền nghề và phát triển kinh tế văn hóa địa phương.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu và tư liệu hóa các tri thức nghề truyền thống.

Với những giá trị độc đáo, gốm Quảng Đức xứng đáng là “di sản văn hóa” của tỉnh Phú Yên và trong hợp lưu các dòng gốm Việt Nam nói chung.

Nguyễn Thị Hậu, Trường Đại học KHXHNV. TPHCM









Hình thời sinh viên :)

 Mình nhờ Gemini làm mới hình ảnh thời sinh viên 1978, 1979, 1980. Sau đó ban dùng AI chỉnh sửa để "xem sao" :) Bệnh của người đông tuổi là hay nhắc "hồi đó" 😃😍😍














QUÁN KỲ NAM - MỘT SÀI GÒN BAO GIỜ CŨNG THẾ!


Ngay những thước phim đầu đã cho mình bước vào một không gian ký ức quen thuộc,như trở về độ tuổi thiếu phụ nhiều năm về trước: chút gì xao xuyến và tiếc nuối, một thời khó quên vì những vất vả khó nhọc, vì những gì đã bỏ lỡ, bỏ qua.
Một khu chung cư cũ với những hỉ nộ ái ố vừa đủ để thấy một Sài Gòn nhẹ nhàng, nhân hậu và lạc quan. Tại đó, Quán Kỳ Nam trong một căn nhà giữa những hàng xóm nhiều nguồn gốc: người cố cựu kẻ mới nhập cư, người mất mát kẻ cũng chẳng được gì... tất cả đều lo làm ăn, đều quan tâm đến hàng xóm bằng những cách khác nhau, tất nhiên không thể thiếu sự tò mò thậm chí tọc mạch...
Nhưng tất cả vẫn là một bức tranh mà chủ đạo là gam màu trầm lắng. Câu chuyện trong Quán Kỳ Nam không phải một bi kịch mà là nỗi buồn dịu dàng, giống như khi ta bắt gặp làn khói thuốc lá quen thuộc thoáng qua ngoài khung cửa, một hương cà phê lan nhẹ trên vỉa hè Sài Gòn, một điều gì cảm động nhói lên khi nhìn thấy bức tường quét vôi màu vàng ký ức... Tất cả làm mình chợt nhớ về một thời nào đó, có lúc đã rất cần một nơi để cảm xúc được trào ra, một không gian giản dị mà ấm áp, một người bạn thấu hiểu mà không cần nhiều lời...
Phim đã chạm vào phần “đời” rất thật của con người. Những câu chuyện trong quán không kịch tính, ta như nhận ra mình hoặc người thân quen nào đó trong mỗi nhân vật, mỗi người mỗi gia đình đều có “vấn đề” của mình: những vết thương, niềm tiếc nuối, sự cô độc không thể chia sẻ cùng ai... Nhưng trên tất cả là ai cũng nghĩ về cách họ đối xử với chính vấn đề của mình, và với “vấn đề” của người hàng xóm.... Qua đó, dù người già hay trẻ đều “trưởng thành” hơn trong tình người.
Những cảnh trong phim mang lại không khí nghệ thuật mà vẫn gần gũi, như một lát cắt của văn chương đô thị: tiếng mưa rơi ngoài hiên, bóng người đi ngược sáng, tiếng muỗng khuấy ly cà phê tan chảy vào im lặng, cả tiếng rao mua đồ cũ... Mỗi chi tiết như một gợi ý về ký ức một Sài Gòn chưa xa những đã giữ những câu chuyện cuộc đời không ai biết. Một con hẻm cũ, một bóng người cô đơn trong đêm, một ánh mắt ngập ngừng, một lời chưa kịp nói, hay chỉ là một buổi chiều ngồi trên sân thượng nhìn bầu trời để thấy lòng mình nhẹ đi một chút.
Một chút tiếc nuối kiểu Sài Gòn xưa qua khung cảnh, âm nhạc, cách kể chuyện gợi lại chất “đô thị ký ức” – thứ mà giờ đây nhiều người quan tâm và hay nói đến (nhưng không vì chính ký ức mà vì cái khác). Ký ức và cảm xúc về những gì đã qua thường bất chợt đến trong một chiều mưa, trên một bức tường vàng, nghe một giọng hát xưa... rồi đọng lại trong tim mình, rất lâu... Quán Kỳ Nam đánh thức đúng phần mơ hồ ấy trong mỗi người.
Những ký ức ấy khi chạm vào không còn nguyên vẹn, từng tiếc nuối không thể gọi tên.… nhưng chính sự lẫn lộn đó mới là cảm xúc thật của con người. Nỗi tiếc nuối đẹp không phải thứ làm mình đau, mà là một lời nhắc rằng mình đã sống chân thành trong một thời điểm nào đó. Bộ phim đã mang lại cho người xem một điều, rằng mỗi người đều có một “quán Kỳ Nam” riêng trong ký ức.
Tuy nhiên vẫn có thể nhận ra nhiều chi tiết không giống như mình biết, nhớ về thời ấy. Mà thật ra có phim nào không còn vài điều bất ý, nhất là khi mình quen thuộc một nơi nào đó thì khi xem phim, ảnh, truyện, nghe ca khúc... về nơi ấy chắc đều nhận ra ngay. Như giọng cô Kỳ Nam chẳng hạn, là giọng Bắc 75 chứ không phải 54, nhưng ngay giọng "thuần HN" như vậy giờ cũng hiếm rồi.
Sau buổi chiếu mình chạy xe về chầm chậm trên đường ướt loáng nước sau cơn mưa lớn. Hơi se lạnh lẫn mùi đất ẩm, không khí trong lành... Một cảm giác quen thuộc từ năm nào đó trở về: đêm khuya, sau khi kết thúc việc làm thêm, cũng chạy xe về một mình như vậy. Đó là những giây phút “tự do” của mình sau cả ngày vất vả việc chính việc phụ. Tự do được thong thả trên đường, tự do để tâm trí nghĩ ngợi vẩn vơ, thậm chí cho phép mình có thể tự chảy nước mắt vì thương mình... Thời ấy bao người rất vất vả nhưng cam chịu, và không đánh mất những ước mơ thầm kín... Quán Kỳ Nam gợi lại cho mình những ước mơ không thành ngày ấy, không có gì to tát, chỉ là vụn vặt thôi. Nhưng biết ước mơ dù có thể mơ ước ấy không bao giờ thành hiện thực.
Sài Gòn bao giờ cũng thế, mình luôn tin vậy, dù 50, 40 năm trước hay bây giờ và mai sau! Như mình đã viết “Với riêng tôi, Sài Gòn như một người đờn ông từng trải, phong cách hào hoa phong lưu nhưng tâm hồn chân tình và đa cảm, dù cuộc đời lúc sang trọng khi nghèo khó “lên xuống” bầm dập nhưng không làm mất đi lòng nghĩa hiệp và nhân ái. Nếu một lần nữa bắt đầu cuộc sống và được lựa chọn nơi mình muốn sống, tôi vẫn chọn Sài Gòn. Vì bạn biết không, chẳng bao giờ là muộn để tôi có thể nói với thành phố này: Sài Gòn, em yêu anh!"



TỪ NGÀY MẸ CHO…


[Stt hàng năm thường tái bản vào ngày này 🙂]
Ba má chị sống xa quê hương, mấy lần má chị một thân một mình sinh nở nuôi con vì ba chị thường đi công tác xa nhà. Ngày sinh chị cũng vậy. Lúc ấy ba chị đang lưu diễn tận miền Tây Bắc, trước khi đi ông ái ngại nhìn bụng vợ đã nặng nề, tần ngần hỏi “mình có sao không? Tui đi vài bữa chắc kịp về ngày mình nằm chỗ…”. Má chị cười “mình cứ đi đi, còn bà con lối xóm… có gì…tui lo được, hổng lẽ chờ mình về mới sanh?”
Vậy là ba chị lại đi. Như mọi lần. nhà chỉ còn má và chị Ba, anh Hai thì đang học ở trường nội trú.
Một ngày mùa đông Hà Nội. Gió mùa Đông Bắc tràn về từ chiều. Nhà hàng xóm đóng cửa ngủ sớm. Đêm đó, má chị trở dạ. Đem gửi chị Ba cho hàng xóm, một mình đi bộ từ phố Đặng Thái Thân qua phố Tràng Tiền. Cứ khó nhọc được vài bước bà lại dừng, ôm bụng nói thầm, con ơi ráng chút xíu nghe, gần tới nơi rồi. Đích đến của bà và đứa bé đang nóng lòng muốn chào đời là Bệnh Viện C trên phố Tràng Thi. Tại đó vào khỏang giờ Sửu bà đã sinh ra một bé gái mũm mĩm có cặp mắt to, khuôn miệng nhỏ và nước da đen thui. Sau này thỉnh thỏang bà vừa kể vừa cười “trời ơi lúc mới sanh nó xấu đau xấu đớn”, hic!
Sinh chị được 4 ngày thì ba chị về. Từ bến xe ông đi thẳng vô bệnh viện thăm vợ con. Anh Hai chị Ba sinh ra trong kháng chiến nên chỉ được gặp ba khi đã vài tháng tuổi, chị là đứa con duy nhất ông gặp mặt khi chưa đầy tháng, có lẽ vì vậy mà chị quấn quýt với ba nhất nhà dù ông vẫn luôn đi xa.
Hai tuổi. Má hỏi: lớn lên con thích làm gì? Lớn lên con thích đi hát lương! Giọng đớt đát cô bé trả lời, vì nhà trong khu tập thể của Đoàn Cải lương Nam bộ nên suốt ngày cô bé được nghe ca cải lương mà.
(Nhời bình của Hậu Khảo Cổ: eo ơi, sến từ nhỏ!)
Bốn tuổi. Má hỏi: lớn lên con thích làm gì? Lớn lên con thích đi ăn bún riêu! Suy nghĩ căng thẳng một lúc cô bé trả lời dứt khoát. A, đó là món khoái khẩu của cô nhỏ mà.
(Nhời bình của HKC: Trời ơi, tâm hồn ăn uống đã có từ rất sớm!!!)
Sáu tuổi. Má hỏi: lớn lên con thích làm gì? Lớn lên con thích đi chơi! Không chần chừ cô bé trả lời một cách nghiêm túc. Á, là vì đi học lớp 1 rồi, không được tự do chạy nhảy nữa mà.
(Nhời bình của HKC: Bụi đời rất hợp với tính iem!!!)
Tám tuổi. má nói đùa: Hôm nay má cho ăn phở, về đừng kể với chị nhé. Chạy vào nhà, cô bé nói với giọng rất vô tư lự: chị ơi, hôm nay má không cho em ăn phở đâu!
(Nhời bình của HKC: dù nhiều tính xấu nhưng còn may được cái thật thà kéo lại!!!)
Bây giờ, cô bé ấy đã là một người đàn bà không còn trẻ nữa (ấy là hơi quá tự tin khi nói thế, lẽ ra cứ phải nói thẳng nói thật là… già rùi). Vẫn da nâu mắt to, miệng nhỏ. Vẫn sến như con sên bên cây chuối, ấy là tự nhận thế. Vẫn luôn quan tâm đến cái sự ăn uống, nhưng cũng biết nấu nhiều món khá lạ và ngon, ấy là nhận xét của hai công chúa và ông thân sinh ra chúng. Vẫn thích đi chơi nên đã chọn một cái nghề hay lang thang dù đôi lúc cũng hơi “ân hận”. Và vẫn thật thà, dù biết rằng “thật thà chịu nhiều xót xa” như lời một bài hát chị thường ngâm nga…
Xy năm trước chị đã có mặt trên cuộc đời. “Ngày chị sinh trời cho”… một số phận luôn SẾN + ĂN + CHƠI + THẬT (THIỆT) = THÀ như thế! Đã vào tuổi sáu mươi vài năm nay một cách bình thường như mọi người, nhưng U 70 rồi mà vẫn tin vào cái kết đẹp của mọi chuyện cổ tích thì đó là bất thường 😀
Chúc mừng sự bất thường của người luôn yêu thích những gì khác thường 🙂



TP. HỒ CHÍ MINH - ĐỊNH MỆNH BÊN MỘT DÒNG SÔNG

 https://nguoidothi.net.vn/tp-hcm-dinh-menh-ben-mot-dong-song-50827.html

Nguyễn Thị Hậu

TP. HCMinh hiện nay (gồm TP.HCM, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũ) luôn là khu vực giữ vai trò trung tâm kinh tế phía Nam. Để tiếp tực giữ vững và phát huy vai trò “đầu tàu kinh tế” của cả nước, thành phố đang đứng trước nhu cầu cấp bách định hình một mô hình không gian phát triển mới. Trong bối cảnh đó, tái cấu trúc và định hình TP. Hồ Chí Minh theo hướng “vùng đô thị sông nước” (River-based Urban Region) là nhu cầu mang tính thực tiễn cao. “Tính chất sông nước” ở đây không chỉ là nguồn lực tự nhiên về nguồn nước, sinh thái và giao thông, mà còn đặc trưng văn hóa – lịch sử từ thời kỳ khởi lập đến nay.

TP. HCMinh nhìn từ cấu trúc sông nước

TP. HCMinh hiện nay là một vùng rộng lớn trung tâm miền Đông Nam Bộ. Ba hệ thống sông chính tạo nên xương sống sinh thái – văn hóa - kinh tế – giao thông của vùng Sông Sài Gòn - có vai trò lịch sử đặc biệt trong quá trình hình thành vùng đất Gia Định và đô thị Sài Gòn. Sông Đồng Nai - kết nối các tỉnh Tây Nguyên với vùng hạ lưu Đồng Nai, Bình Dương và TP. HCM. Và Sông Thị Vải – Sông Lòng Tàu – Soài Rạp - tạo thành hành lang chiến lược kết nối từ TP. HCM ra biển qua Cần Giờ – Bà Rịa – Vũng Tàu. Các con sông lớn trên địa bàn thành phố đều đổ ra biển Đông, vì vậy “mặt tiền” của vùng Đông Nam bộ hiện nay thuộc về TP Hồ Chí Minh. Ngoài khơi, từ xa xưa Côn Đảo luôn thuộc sự quản lý của thành Gia Định, có thể coi Côn Đảo là “tiền cảng” của cảng Bến Nghé – Gia Định.

Cấu trúc sông nước không chỉ quy định điều kiện tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến tổ chức không gian đô thị, phân bố dân cư, hệ thống bến cảng và vùng đệm sinh thái. Từ vị trí địa lý “trời cho” nhưng được “người chọn” đã tạo nên TP. Hồ Chí Minh (trước kia và hiện nay) là một thành phố sông nước, hướng biển và kết nối.

Bắt đầu từ thời tiền sử vùng hạ lưu sông Đồng Nai, sông Sài Gòn là trung tâm nền văn hóa cổ “văn hóa Đồng Nai”. Từ cuối thế kỷ 17 và trong suốt thế kỷ 18, lưu vực hai con sông Sài Gòn, Đồng Nai tiếp nhận những đoàn lưu dân người Việt, người Hoa vào khai phá. Bản thân sự “khai sinh” vùng Gia Định đã là quá trình tập hợp những cộng đồng từ nhiều nguồn gốc, nhiều vùng miền trong và ngoài nước, hòa nhập với các tộc người đã tụ cư lâu đời ở vùng đất này.

 Các con sông của thành phố gắn với quá trình định cư và phát triển của người Việt, Hoa và nhiều cộng đồng khác ở miền Đông Nam Bộ. Cùng với quá trình khẩn hoang lập ấp, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… lưu dân vào vùng đất Gia Định đã mang theo những phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lối sống nếp sống... của quê hương bản quán làm chỗ dựa tinh thần ở vùng đất mới. Trên địa bàn thành phố tồn tại một hệ thống di sản văn hóa đô thị sông nước.

Nhiều ngôi đình, chùa, miếu thường quay mặt hướng ra sông, rạch, các địa danh “Miếu Nổi” có từ một miếu nhỏ dựng trên các cù lao giữa sông... Điều này cho biết các làng xóm xưa “quy hoạch” ven sông, kinh rạch, lấy sông là “xương sống”, kinh rạch lớn nhỏ là hệ thống “mạch máu” tạo nên sinh khí một vùng đất. Nhiều đình làng trước đây tổ chức Lễ hội rước sắc thần bằng ghe - nét đặc sắc của cư dân ven sông ở Nam bộ. Vùng biển Cần Giờ, Vũng Tàu, Bà Rịa có Lễ Nghinh Ông và tục Thờ Cá Ông.

Nghề gốm truyền thống xóm Lò Gốm Sài Gòn xưa còn địa danh Kinh Lò Gốm, rạch Lò Gốm (quận 6, quận 8), khu Lò Lu phường Long Trường cũ (TP Thủ Đức) liền kề sông Trao Trảo – Rạch Chiếc. Làng gốm Lái Thiêu ven sông Sài Gòn... phát triển nhờ thuận lợi đường thủy.

Nhiều ngôi chợ xưa hình thành ngay tại bến sông/rạch lớn như chợ Bến Thành xưa, chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Lớn gần Kinh Tàu Hũ, chợ Tân Định, chợ Lê Văn Sĩ gần kinh Nhiêu Lộc, chợ Thị Nghè, hay chợ Thủ Dầu Một kế sông Sài Gòn... Cũng là cảnh quan “trên bến dưới thuyền” của Nam bộ nhưng ở các đô thị lớn như Sài Gòn (và Đông Nam bộ) thì “trên bến” có vai trò chủ đạo, vì tại đó hình thành những chợ đầu mối, rồi các cơ sở dịch vụ, công nghiệp, sau này là các bến cảng lớn xuất nhập nông sản, hàng hóa. Trước đây còn nhiều khu cư trú ven kinh rạch, nhà sàn hoặc một phần nhà sàn. Tuy nhiên do không có điều kiện đảm bảo vệ sinh môi trường, nên nhiều khu vực đã được giải tỏa và ngày càng có xu hướng xóa bỏ lối cư trú này trong đô thị.

Vị thế Địa – Văn hóa mang lại cho TP. Hồ Chí Minh hiện nay một lợi thế quan trọng trong quá trình sáp nhập: đó là một truyền thống lịch sử chung, bản sắc văn hóa đa dạng thể hiện qua hệ thống di sản phong phú của một vùng văn hóa sông nước – hướng biển độc đáo.

Các vấn đề đặt ra

Như vậy có thể thấy rằng, TP. Hồ Chí Minh – đô thị lớn nhất Việt Nam hiện nay – được định hình và phát triển dựa trên đặc điểm Tự nhiên – Văn hóa sông nước. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa từ giữa thế kỷ 20 đã “bỏ quên” yếu tố sông nước trong quy hoạch phát triển giao thông và hình thái cư trú của cộng đồng. Gần đây TP. Hồ Chí Minh đã quan tâm đến yếu tố sông rạch trong cấu trúc đô thị, bắt đầu từ mạng lưới giao thông đường thủytiềm năng phát triển du lịch đường sông tính kết nối cao của sông rạch. Hệ thống thủy lộ chính là tuyến du lịch xuyên không gian văn hóa – thời gian lịch sử của thành phố và Nam bộ.

Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ gây ra tình trạng đứt gãy các hành lang, giao thông sông nước do bê tông hóa, san lấp kinh rạch. Số lượng và mật độ dân cư, cơ sở sản xuất dày đặc gây ô nhiễm trầm trọng, suy giảm chất lượng sinh thái vùng ven kinh rạch, ven sông, ven biển.

Khi còn là những đơn vị hành chánh khác nhau thì thiếu phối hợp liên vùng trong quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch theo lưu vực sông. Thành phố và vùng ven mất dần bản sắc văn hóa sông nước, nhất là lối cư trú ven trên sông rạch. Đặc biệt, khi các đô thị phát triển nhờ hệ thống đường bộ thì cũng nhanh chóng “mất gốc” vì xa rời, cắt khỏi môi trường cảnh quan sông nước tự nhiên vốn có – yếu tố khởi đầu và phát triển đô thị.

Tất cả điều đó làm mất đi không chỉ cảnh quan sông nước mà còn cắt đứt ký ức đô thị sông nước trong cộng đồng: đường thủy không còn vai trò, chợ ven sông biến mất, hệ thống văn hóa tín ngưỡng ven sông mờ nhạt, hình thái cư trú nhà sàn truyền thống bị phá bỏ... Tất cả là một hệ thống “di sản” sẽ biến thành “tài nguyên du lịch” nếu biết bảo tồn và phát triển đúng hướng, đúng cách. Đô thị trở nên lệ thuộc hạ tầng đường bộ, dễ bị ngập úng, mất bản sắc. Đặc biệt góp phần tác động tiêu cực vào “biến đổi khí hậu” khi mà diện tích mặt nước giảm, đi cùng với diện tích mảng xanh ven bờ cũng giảm, tăng thêm nhiều diện tích bê tông hóa và hiệu ứng nhà kính tại những khu chung cư cao tầng ven sông đang được xây dựng ngày càng nhiều.

Bảo tồn bản sắc văn hóa

TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện một phần tích hợp này bằng một số chương trình tái thiết không gian sông nước trong chiến lược phát triển đô thị hiện đại. Vài năm gần đây thành phố đã thực hiện dự án “hồi sinh bến Bạch Đằng” nhắc nhớ ký ức một thời “dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai” quen thuộc của người Sài Gòn. Mở ra hướng phát triển “TP.HCM – thành phố bên sông” bằng các dự án giao thông dọc sông Sài Gòn.

Dự án cải tạo bán đảo Thanh Đa theo định hướng bảo toàn cảnh quan tự nhiên gồm các giải pháp quy hoạch tổng thể, hài hòa giữa phát triển đô thị hiện đại và bảo tồn thiên nhiên, trong đó chú trọng đến hệ thống thủy lợi tự nhiên, khả năng thoát nước, không gian công cộng và hệ sinh thái bền vững.

Các chương trình cải tạo kênh rạch (Tàu Hũ – Nhiêu Lộc – Thị Nghè), di dời dân cư, mở lối đi ven kênh, trồng cây xanh, nạo vét kênh rạch... Mở ra không gian cộng cộng mới, hình thành ký ức đô thị mới. Tất cả những dự án đã và sắp triển khai luôn cần đặc biệt chú ý ba yếu tố quan trọng, quyết định hiệu quả lâu dài của dự án và chất lượng đời sống cộng đồng. Đó là tái định cư, bảo toàn di sản văn hóa sông nước và thích ứng biến đổi khí hậu. Đây cũng là ba yếu tố đảm bảo cho thành phố phát triển bền vững.

Định hướng quy hoạch các “hành lang đô thị ven sông” (urban river corridors) kết hợp giao thông – công viên – di sản – dịch vụ công cộng. Phát triển “hành lang” này đầu tiên thiết lập hệ thống công viên ven sông, bảo tồn hành lang sinh thái. Tăng cường giao thông công cộng đường thủy. Trên cơ sở đó khôi phục bản sắc văn hóa đô thị sông nước như bến và chợ ven sông, làng nghề bên sông, lễ hội truyền thống, bảo tồn và trùng tu, phục dựng những di tích tín ngưỡng dân gian, tạo thành tuyến điểm du lịch. Phát triển công nghiệp văn hóa từ tài nguyên di sản, như chương trình biểu diễn thực cảnh “Lễ Hội sông nước” đã tổ chức ở TP. Hồ Chí Minh.

TP. Hồ Chí Minh có vị thế địa – văn hóa, địa – kinh tế gắn liền với các dòng sông. Không chỉ vậy, hiện nay TP. Hồ Chí Minh còn giữ toàn bộ “mặt tiền” hướng biển của cả miền Đông Nam bộ. Đây là một lợi thế to lớn của thành phố.

Sông nước không chỉ là yếu tố tự nhiên, mà còn là nền tảng lịch sử - văn hóa – ký ức – bản sắc của TP. HCMinh. Vì vậy cần phục hồi và tái cấu trúc các trục sông như hệ trục không gian chiến lược, gắn quy hoạch – di sản – cộng đồng, làm nền tảng cho phát triển đô thị hiện đại - bền vững – bản sắc.  

TP. Hồ Chí Minh, ngày 2.10.2025

 


GIÁ TRỊ DI SẢN ÓC EO - BA THÊ TỪ GÓC NHÌN KHẢO CỔ HỌC CỘNG ĐỒNG

  Đặt vấn đề Khu di tích óc Eo – Ba Thê (huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang) thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ của Việt Nam)....