Không khó để đọc hoặc nghe thấy lời đánh giá, nhận xét bằng những từ này. Nó phổ biến đến mức ghép các từ lại cũng thành một câu như “trạng từ” chỉ tình trạng hay tính chất của sự việc, hành động, thậm chí là tính cách của một con người. Thử tìm hiểu thì biết một số nghĩa như:
Hậu Khảo cổ
Đi và tìm trong đất... thấy người :)
ĐẠI KHÁI NÓI CHUNG LÀ TƯƠNG ĐỐI
VẪN CÒN NHỚ NHAU (chuyện trẻ sơ tán, tiếp) - 10. NGÕ MAI HƯƠNG
10. NGÕ
MAI HƯƠNG
Khi về Hà
Nội tôi vào học lớp 4. Lúc này nhà tôi chuyển từ tập thể Đoàn Cải lương Nam bộ ở
ngõ 23 Ngô Thời Nhiệm gần chợ Hôm – nơi gia đình tôi sống từ khi ba má tập kết
ra Bác - xuống ở tập thể của Nhà hát Cải lương trong ngõ Mai Hương, phố Bạch
Mai, gọi là Khu tập thể Quỳnh Lôi. Ngõ Mai Hương lúc ấy là một khu mới xây dựng,
toàn những dãy nhà cấp 4 mái phibro xi măng, một bên là ao rau muống rộng. Chỉ
có hai dãy nhà cao tầng là trường Đoàn Kết và trường Phổ thông công nghiệp Hai
Bà Trưng (khác trường Hai Bà Trưng trên khu Hoàn Kiếm). Khu tập thể tôi ở có
cái sân cỏ mọc rậm rạp, ba dãy nhà hình chữ U quanh sân, một dãy là phòng tập của
Đoàn cải lương. Giữa sân là nhà để mấy chiếc xe tải và một cái hầm trú ẩn rất lởn,
bọn trẻ thường chơi trốn tìm ở đó.
Tôi ở khu
B cùng với nhiều gia đình khác, trong đó có cô chú nhạc sĩ Phan Nhân – Phi Điểu
– hai người em đồng hương thân thiết của ba má tôi. Hồng Quân, con của cô chú,
học cùng với tôi. Hồng Quân hồi nhỏ nghịch thôi rồi, lúc nào cũng thấy bạn bị
bó bột hết chân rồi tay, không ngày nào không bị ba má la rầy. Cùng học còn có
bạn Tiến nhà ở cạnh nhà tôi, bạn Dũng “còi” nhưng thông minh nhất lớp, nhà bạn
gần đấy có lò bánh mì, mỗi khi tôi qua đổi bánh bạn thường ưu tiên cho chiếc
bánh vỏ dày giòn thơm. Thân nhất với tôi là Mỹ Linh, một bạn người nhỏ nhắn,
đôi mắt rợp hàng mi dài rất đẹp, nhà ở dãy trong cùng của khu B. Tôi hay qua
nhà chơi với hai chị em Linh, ba mẹ Linh cũng rất quý tôi, còn Linh hay ra nhà
tôi học cùng. Có lần vào một tối mùa đông, rất lạnh mà vẫn có muỗi, hai đứa ngồi
ở bàn trùm chăn kín chân nhưng muỗi vẫn vo ve bên tai. Bực quá tôi vừa đập chan
chát vừa càu nhàu “cái con muỗi này...”, thế là Linh cười mãi, bảo tôi mắng muỗi
mà như mắng người ấy.
Chúng tôi
học trường Ngô Quyền trong Ngõ Quỳnh thông ra phố Bạch Mai ở gần khu chợ giời.
Cô chủ nhiệm lớp 4 là cô Hoàn, sau lên lớp 5 là cô Phương. Nhà cô Hoàn nhà trên
phố Bạch Mai, cô hiền lắm. Chúng tôi thường đi bộ lên nhà cô chơi, được cô dẫn
đi ăn kem. Cô Phương thì nhà ngay khu C, gần cửa hàng thực phẩm bán thịt. Cửa
hàng này hay có mấy cái thông báo viết nguệch ngoạc bằng phấn trên cái bảng đen
nhỏ tróc sơn, kiểu như “hôm nay bán thịt trẻ em” (phiếu thịt ký hiệu TR), hay
“hôm nay có chân giò, sườn thương binh” (ưu tiên bán cho người có thẻ thương
binh). Má tôi hay nhờ chú Phan Nhân (chú là thương binh nhẹ) mua giùm về nấu
món gì đó ngon ngon cả hai nhà ăn chung.
Cô
Phương lúc đó mới sinh em bé, chồng cô công tác xa nhà. Chúng tôi hay qua nhà
cô giúp cô vào sổ điểm, hay mang giùm cô chồng vở nặng đến lớp. Lớp trưởng là bạn
Bình Tĩnh học rất giỏi, ít nói nhưng rất chu đáo, hay giúp cô Phương những việc
nặng. Hồi đó đi học chúng tôi phải vác bàn ghế của mình, vì lớp học chưa có gì
ngoài cái bảng đen. Má tôi nhờ đóng cho tôi bộ bàn ghế xếp gọn rất đẹp, có sợi
dây đeo vào vai. Thế là ngày nào đi học chúng tôi cũng như đi hành quân, lưng
đeo bàn ghế tay cầm túi, cặp sách. May mà hồi sơ tán đi học luôn đeo mũ rơm to
nặng nên cũng đã quen.
Sang đến
lớp 6 chúng tôi chuyển ra trường Hà Huy Tập ở đầu ngõ, gần bệnh viện Mai Hương.
Chúng tôi có nhiều bạn hơn. Mỗi ngày tôi vẫn “trốn” đi học sớm để chơi nhảy ngựa,
nhảy dây chun... đến giờ vào học là đầu tóc quần áo trông như lũ...”nặc nô” - chúng
tôi vẫn bị các cô giáo mắng yêu như thế khi đi qua đám con gái đang hò hét nhảy
lên đầu nhau.
Ở khu tập
thể vào cuốn tuần các nhà hay “ăn tươi”. Chả có gì to tát mà thường là bữa bún
chả. Từ sáng sớm bọn con gái rủ nhau đứa đi xếp hàng mua thịt, đứa ra chợ mua
rau muống về chẻ, đứa đi bộ lên Trại Găng xếp hàng đổi bún. Gần trưa mùi khói
bay thơm phức, nhưng nhà nào cũng có rổ rau và đĩa bún là to, bát nước mắm lớn
đầy cà rốt với đu đủ xanh, còn chả nướng thì chỉ vừa một đĩa con.
Hồi ấy cứ mỗi ngày Trung thu thế nào tôi
cũng nhận được một món quà nhỏ từ nhà thơ Thanh Tịnh – một người bạn rất thân
thiết của gia đình tôi. Còn nhớ, bác Thanh Tịnh đi cái xe đạp “cởi truồng”,
không phanh không chắn xích không chắn bánh xe… Bác bảo: xe của bác cái cần kêu
thì không kêu (ấy là cái chuông), còn cái không cần thì cứ kêu, mà kêu to (ấy
là toàn bộ cái xe, nhất là xích xe, cứ lọc xọc lọc xọc miết…). Đêm trung thu thế
nào bác cũng mang đến cho tôi một cái bánh dẻo nguyên vẹn, chỉ là nhân hạt sen
(cứng quèo), lớp bột bánh cũng khô và cứng… nhưng sao mà ngon thế không biết!
Ngon nhất, là vì được ăn cả chiếc bánh ấy, vì bác dành riêng cho mình tôi. Còn
một, hai cái bánh mua bằng phiếu, hay cơ quan “phân phối” thì má tôi thường để
dành gửi biếu các bác chủ
nhà hồi đi sơ tán, vì “ở Hà Nội mình còn có khi được ăn, chứ ở nông thôn chẳng
có đâu con ạ”.
Một năm vào mùa trung thu, đi tàu điện
từ chợ Hôm lên Cầu Giấy đến trường Yên Hòa, đi qua phố Hàng Bài, phố Hàng Bông,
thấy bán đèn ông sao, lồng đèn con gà con thỏ… tôi cứ mải mê ngắm và ước gì mình có được
chiếc đèn ấy. Thèm được cầm cái cán dài dài có dán giấy vòng quanh, được đốt ngọn
nến nhỏ xíu trong đèn, được đung đưa nó theo mỗi bước chân. Nỗi thèm muốn mạnh đến ứa nước mắt. Sau này mới hiểu lúc đấy chảy nước
mắt vì tủi thân, sự tủi
thân không do ai không vì cái gì, chỉ vì không hiểu sao chưa bao giờ (và không
bao giờ vì cho đến nay đã già rồi) mình được có một đồ chơi trung thu như thế!
Bây giờ vào mỗi mùa trung thu, nhiều
nơi vẫn còn có những trẻ em ước mong có một cái bánh nhỏ, một món đồ chơi giản
đơn như thế. Chúng tôi vẫn rủ nhau mỗi người một chút, giúp cho các em nhỏ hoàn cảnh
khó khăn có được niềm
vui nho nhỏ trong ngày Tết của trẻ em.
Sài Gòn 11.8.2025
Hình: trẻ con khu tập thể ngày ấy...
VẪN CÒN NHỚ NHAU (chuyện trẻ sơ tán), phần tiếp theo
9. LÀNG LÁNG
Làng Láng – tên nôm của xã Yên Lãng - là một làng cổ nằm bên sông Tô Lịch đoạn từ ô Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở. Làng Láng nổi tiếng vì nghề trồng rau thơm, húng Láng ở đây nổi tiếng là thơm ngon. Làng trải dài dọc theo đường Láng có hai hàng cây xà cừ cao vút xanh mát, một bên đường là sông Tô Lịch. Hồi đó con sông chỉ là một cái mương nhỏ, nước đen ngòm, hôi thối. Sát bờ sông phía đường Láng là có những mảnh ruộng nhỏ trồng rau thơm, người ta vẫn lấy nước sông tưới rau. Phía bên kia sông là con đường đất nhỏ của làng Yên Hòa – nơi tôi theo học nốt học kỳ 2 của lớp 3 tại trường Yên Hòa.
Trên đất làng có nhiều chùa cổ, đình, đền cổ xưa rất
đẹp. Từ Cầu Giấy vào có Chùa Nền, chùa Láng ở Láng
Thượng, Chùa Mứng ở Láng Hạ. Nhà của bác chủ nơi chúng tôi ở nhờ gần Chùa Láng nổi tiếng
linh thiêng, mỗi ngày rằm, mùng một nhiều người từ nơi khác đến lễ chùa. Hồi đó tôi nghĩ
lại không biết sao giữa thời chiến mà vẫn có người “mê tín dị đoan” như
thế? (hồi đó ở miền Bắc đi lễ đình chùa bị coi là “mê tín dị đoan”, nhiều đình
chùa bị bỏ hoang hoang hoặc sử dụng làm nhà kho, gần như không còn lễ hội ở các
làng cổ). Sau này tôi mới
biết chùa Láng thờ vị thánh của Làng tên là Từ Đạo Hạnh rất linh thiêng. Ngài là thánh nhưng sau khi đi tu lại thành chính quả tức
là thành Phật nên mới được thờ phụng ở Chùa.
Thời gian
ở làng Láng không lâu, nhưng chị em tôi có nhiều kỷ niệm vui vui...
Mỗi sáng,
hai chị tôi (chị Hiền, chị Vân) học lớp 10, phải dậy rất sớm đi học trường Trần
Phú (từ Hà Nội sơ tán về) tận Cầu Diễn, cách đó khoảng 10 cây số. Hai chị đi bộ
vì làm gì có xe đạp hay xe bus đâu. Có lần hai chị đi sớm quá, qua đồn công an ở
ngã tư Cầu Giấy (ngay đầu cây cầu xi măng nhỏ, nay đã xây cầu mới to đẹp), mới
hỏi giờ, các chú công an nói mới có 4 giờ sáng hai đứa đi đâu sớm thế? Vậy là
hai chị ngồi ngay ở trạm, nhờ ánh đèn mà ôn lại bài vở.
Cũng ở đó
có một cửa hàng ăn uống của mậu dịch. Chị em tôi thường ăn cơm ở đó cả trưa lẫn
chiều. Mỗi sáng hai chị cho tôi 3 hào với 1 cái "tem gạo 225gr", trưa ra cửa hàng xếp
hàng mua cơm ăn rồi tự đi học buổi chiều. Cơm mậu dịch quanh quanh chỉ vài món:
thường xuyên món mặn là su hào kho hay nhộng rang, canh “toàn quốc” (toàn nước lõng bõng
vài cọng rau). Tôi không ăn được nhộng vì... sợ côn trùng từ nhỏ, nhưng rồi cũng
phải biết ăn vì chả có gì. Hai chị đi học về ăn sau có hôm không còn thức ăn,
chỉ mua được cơm rồi chan nước chè loãng làm canh. Kiểu ăn như thế là bắt
chước má tôi, bà thường chan nước lạnh vào cơm và lua rất nhanh “còn để làm việc
khác”, nhưng sau tôi mới hiểu là má nhường thức ăn cho các con, có khi chỉ là
chén cà chua hấp dầm nước mắm với chút tóp mỡ, có khi là vài miếng đậu phụ kho
với maggi.
Có hôm ra cửa hàng nhỡ hết cơm, tôi mang tem đến lò bánh mì gần đấy đổi lấy bánh mì ăn. Nếu chịu khó xếp hàng
thì cái tem 225gr và 2 hào được một cái bánh mì nóng hổi, tuy bột đen thui và mùi
chua chua, vỏ mỏng dính, nhưng nhờ nóng nên ăn không cũng ngon.
Cũng
ở đó tôi được gặp rất nhiều người, có những người quen mặt vì gặp nhiều lần, như
hai chị em đứa kia cũng khoảng tuổi tôi, hay ra mua cơm mang về nhà. Đứa chị xách
cặp lồng nhôm méo mó dẫn theo đứa em khoảng 3 tuổi, mua hai xuất cơm, lấy thêm
chai nước chè loãng từ cái thùng to ở góc có sợi giây buộc mấy cái ca nhôm đen
sì cáu bẩn để mọi người uống chung. Có lần tôi xếp hàng sau hai chị em, tôi hỏi,
sao đằng ấy không ăn ở đây luôn mà mang về làm gì cho mất công. Đứa chị trả lời:
mang về còn có các em ở nhà nữa. Tôi mới biết hai xuất cơm cho bốn chị em ăn
chung. Từ lần ấy ra cửa hàng là tôi nấn ná chờ để chia bớt cơm cho bạn, vì tôi ăn
không hết.
Mỗi chiều
đi học về tôi cũng hay lang thang dọc các ruộng trồng rau thơm, tuy mùi... khó
ngửi nhưng nhìn những ngọn rau nhỏ xanh mướt mát, lại có mùi thơm (nếu lén bứt
vài cái lá vò vò trong tay) tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Có lần còn bắt chước mấy người
tưới rau, đi qua sông Tô Lịch (nhỏ như cái rạch) bằng cây cầu bằng hai thanh tà
vẹt đường tàu nhỏ xíu, suýt bị lộn cổ xuống sông, may nhờ có bác kia đỡ. Bác mắng,
con gái mà nghịch quá thể, sao lại đi đường này?
Chúng tôi chỉ ở làng Láng một thời gian ngắn, sau đó về nhà ở gần chợ Mơ (hồi đó gọi là “quân khu chợ Mơ” nhưng không nổi tiếng bằng “quân khu Nam Đồng” toàn các "anh hùng" con bộ đội). Mỗi ngày tôi đi học bằng tàu điện từ Chợ Mơ lên Cầu Giấy, chuyển tàu ở Bờ Hồ, qua Đền Voi Phục... Trên tàu có lần tôi bị móc túi, thằng bé cứ khoắng mãi trong cái túi áo của tôi, đến lúc tôi quay lại nói “chả có gì đâu”, nó mới bỏ tay ra và lườm tôi một cái, ý là sao không nói sớm để nó khỏi mất công! Những khi tàu mất điện nếu chờ không được, bọn trẻ hò reo nhau xuống cùng đi bộ, đi mãi đi mãi... Về đến chợ Mơ có khi chỉ còn mình tôi.
Nhiều buổi
tối mịt mới về đến nhà, má tôi vẫn chờ cơm, dù luôn mắng “phủ đầu” là con gái
con lứa đi đâu giờ này mới về...
Sài Gòn 8.2025
Hình: các loại tem lương thực thời bao cấp từ 1975, các tem thời trước 1975 ở miền Bắc cũng định lượng như vậy nhưng hình vẽ khác.
T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i
Bùi Chát
Ghi chú của tui (Hậu khảo cổ): tâm thức "giải trung tâm" (giải thiêng nghệ thuật kiểu hàn lâm) thực sự thúc đẩy sự phát triển trong thời đại mới. Người còn tư duy "duy tâm" thì khó hiểu và khó chấp nhận những hoạt động thực hành nghệ thuật kiểu của Bùi Chát hiện nay hay của Nhóm Mở Miệng, Khoan Cắt Bê Tông khi trước.
ĐỌC VÀ NGHE NÓI
Khoảng mươi năm
gần đây văn hóa đọc trở lại như một phong trào xã hội, một sự “cân bằng” lại
với xu hướng nghe nhìn đang thắng thế mạnh mẽ nhờ các phương tiện internet. Phong trào đó phát triển mạnh mẽ ở
nhiều nơi. Tuần qua, khi một người có tầm ảnh hưởng vừa ra đi, trong
những lời thương tiếc,
rất nhiều người nhớ đến anh
như một người truyền cảm hứng về văn hóa đọc cho lớp trẻ.
Vì sao hiện nay
văn hóa đọc lại quan trọng với xã hội và cần thiết cho mọi người như vậy?
Văn hóa đọc không chỉ là hành vi đọc mà
còn bao gồm thói quen, môi trường, thái độ, động cơ và giá trị xã hội của việc
đọc. Đọc ở đây là đọc chậm hơn, dài hơn và có chiều sâu hơn từ những sản phẩm
in, từ internet.
Giá trị của văn hóa đọc, với tôi, không chỉ là biết mà là để hiểu.
Thời nhỏ, tôi tiếp nhận thông tin theo những cách rất
truyền thống. Từ những
bài ca dao, câu thành ngữ tục ngữ, những kinh nghiệm và tri thức dân gian về thời tiết, về kỹ thuật
lao động sản xuất, về ứng xử cộng đồng… đã
được “chuyển giao” trực tiếp qua những lần trò chuyện, giảng giải từ thế hệ ông bà, cha mẹ. Những thông tin từ chính quyền
về quản lý xã hội cũng
được phổ biến từ hệ thống truyền tin như loa phường, hoặc qua các cuộc họp ở xã
để “phổ biến thông tin”.
Một người “truyền đạt” và tiếp nhận kiểu tập thể. Không phải mọi người đều
hiểu thông tin như nhau, nhưng không ai có cơ hội phản hồi.
Cách thông tin “truyền
miệng” lâu đời tạo nên thói quen chỉ nghe ở người tiếp nhận, từ thời phong kiến khi xã hội
phần lớn là người mù chữ đến thời bao cấp phương tiện truyền thông ít ỏi và lạc
hậu. Thời đó sách in không nhiều, người thích đọc luôn “đói sách”, nhưng nhờ
vậy mỗi cuốn sách mới là một sự kiện và luôn có những bạn đọc tâm giao.
Cách tiếp nhận thông tin từ chữ viết, tức là cách đọc, biến đổi theo thời
gian: Từ loại sách vỡ lòng “Tam tự kinh” đến “bình dân học vụ”, từ “độc quyền”sách
in báo giấy đến sự đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của thông tin.
Hiện nay phổ biến rất nhiều loại sách in, ebook, báo chí, truyền thông trực
tuyến, mạng xã hội... Nếu sách in mang lại cảm xúc và lưu giữ ký ức trong nhiều
thế hệ người đọc thì các loại sách hiện diện trên internet mang đến thông tin
nhanh, nhiều, mới lạ. Tuy nhiên khi đọc cần có kỹ năng và kiến thức nhất định,
có “bản lĩnh” thì thông tin tiếp nhận mới thật sự hữu ích.
Lợi ích và giá trị của sách dù ở hình thức nào cũng chỉ có được khi biết
đọc đúng. Bởi vì cách đọc trong quá khứ là “đọc theo, hiểu theo, làm theo”
những gì được viết và sự diễn giải chủ quan của một vài người. Còn cách đọc của
thời hiện đại là cá nhân hóa quá trình tiếp nhận thông tin đọc – nghĩ – hiểu –
hành. Hành là thực hiện những gì được người đọc cho là đúng từ quá trình nghĩ
và hiểu của chính mình, không chỉ là làm theo.
Hiện nay sự thay đổi cách
thức và mức độ đọc sách đi cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Các
loại trí tuệ nhân tạo đã được ứng dụng để “đọc thay” con người, từ một văn bản
vài chục trang đến kho dữ liệu đồ sộ trên internet. Điều này giúp con người rút
ngắn thời gian tìm kiếm, tránh sự “phát hiện lại châu Mỹ”. Tuy nhiên sử dụng
internet không đúng sẽ làm tăng nhanh xu hướng tiếp nhận thông tin kiểu “nghe
nói” từ các AI.
Có thể nói hiện nay cách đọc chính là cách ứng xử với thông tin. Ứng xử thế nào xã hội sẽ
phát triển như vậy.
Tôi, thuộc thế hệ cũ, vẫn thích đọc những tác phẩm của các tác giả yêu
thích, về các chủ đề mình quan tâm. Tất nhiên sách in bao giờ cũng là ưu tiên
hàng đầu, bởi đó là thói quen, hơn nữa, là ký ức. Song tôi cũng không
từ chối những cách đọc khác, nhất là đọc từ Internet. Nhưng đọc kiểu gì tôi cũng luôn tự nhắc:
Đọc bằng mắt và bằng đầu của mình, chứ đừng đọc bằng tai kiểu “nghe nói” của thời
xưa cũ hay của thời lên mạng hiện nay.
Báo Tuổi trẻ ngày 4.8.2025
VĂN HOÁ THỊ DÂN Ở THÀNH PHỐ MỚI
Nguyễn Thị Hậu
Thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm TP. Đà Nẵng và tỉnh
Quảng Nam, tuy cùng trong vùng văn hoá “Xứ Quảng” lâu đời nhưng là hai địa phương
có bản sắc riêng. Việc sáp nhập đơn vị hành chính thống nhất mang lại một thành
phố ĐÀ NẴNG MỚI sẽ có tác động sâu sắc đến cấu trúc kinh tế – xã hội – văn hóa
của cả “xứ Quảng”, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều thách thức, đặc biệt là
văn hoá thị dân sẽ có những chuyển biến lớn. Có thể nhận diện một số đặc trưng
cơ bản của Đà Nẵng và Quảng Nam, từ đó tìm kiếm những phương thức phù hợp để xây
dựng và phát triển “văn hoá thị dân” cho một thành phố trung tâm của khu vực
miền Trung.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc trung ương, phát triển hiện
đại, định hướng quốc tế hóa. Tính chất đô thị ngày càng được khẳng định: từ đầu
những năm 2000 đến nay Đà Nẵng là một trung tâm lớn về văn hoá và dịch vụ. Hạ
tầng phát triển nhanh chóng, đồng bộ, nhiều không gian công cộng và sinh hoạt giao
lưu văn hoá quốc tế. Dân cư tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, tính chất
thị dân ngày càng rõ nét (ứng xử nơi công cộng, dịch vụ, kỷ cương…). Một “thành
phố đáng sống” như mục tiêu được đặt ra và như đánh giá của nhiều người dân và
du khách.
Quảng Nam là một tỉnh nông – ngư nghiệp, địa hình sinh
thái đa dạng từ vùng núi, đồng bằng đến biển và đảo ven bờ. Hạ tầng phát triển
chưa đồng bộ, thiết chế văn hoá nông thôn làng xã là chủ yếu. Dân cư chủ yếu sống
ở nông thôn hoặc thị tứ nhỏ, văn hoá cộng đồng cao. Truyền thống văn hoá “xứ
Quảng” mang tính đặc thù và bền vững. Nhiều di sản văn hoá độc đáo và nổi
tiếng: Mỹ Sơn, Hội An, Cù lao Chàm, các làng nghề gốm, mộc, dệt lụa, vùng văn
hoá lưu vực sông Thu Bồn…
Thành phố Đà Nẵng mới về cơ bản vẫn là không gian và
con người “xứ Quảng”, chung một lịch sử hình thành và phát triển (dù đã có vài
lần tách nhập), chung cá tính “người Quảng”, chung nhiều yếu tố văn hoá đặc
trưng như ngôn ngữ, ẩm thực… Đó là “cơ sở khoa học” mang lại sự thuận lợi hơn
nhiều địa phương khác trong quá trình sáp nhập. Với định hướng Đà Nẵng sẽ là
một trung tâm kinh tế lớn, trung tâm dịch vụ và du lịch… thành phố sẽ phát
triển nhanh hơn tính chất văn hoá đô thị về cả “vật thể và phi vật thể”: có
điều kiện vật chất xây dựng hạ tầng đường xá với vỉa hè, cây xanh, phương tiện
giao thông công cộng, các khu đô thị mới hoặc chỉnh trang khu cư trú cũ theo
hướng tiện nghi, vệ sinh hơn… Xây dựng các thiết chế văn hoá đô thị (như các
cụm công trình rạp phim, nhà hát, thư viện, nhà văn hoá…) ở những vùng nông
thôn hiện nay. Cơ sở vật chất là tiền đề cho việc xây dựng ý thức “văn minh đô
thị” ở người dân. Đô thị hoá – hiện đại hoá cũng là xu hướng phát triển hiện
nay, nhưng nếu được định hướng và lấy một đô thị có “thương hiệu” như Đà Nẵng
làm hạt nhân lan toả các yếu tố văn hoá đô thị, thì quá trình này sẽ thuận lợi
và phát triển đúng hướng.
***
Tuy nhiên, bất cứ quá trình đô thị hoá nào cũng có hiện tượng “xung
đột văn hoá”, thể hiện rõ nhất là văn hoá thị dân. Văn hoá đô thị hướng đến xây
dựng phát triển tính chất công dân hiện đại với nền hành chính chuyên nghiệp, “chính
quyền và công dân số”. Do đó những khu vực nông thôn bảo lưu văn hoá
làng xã, họ tộc, tín ngưỡng dân gian… cần có sự chuyển đổi nhanh chóng để thích
nghi với môi trường xã hội và không gian sống mới. Đó là lối sống mới trong môi
trường đô thị đông đúc, đa dạng, sinh hoạt theo thời gian “hành chính, công
nghiệp”, thích nghi với những thói quen ở đô thị như đúng giờ, không ồn ào, giữ
vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng tính cá nhân trong chung cư, khu đô thị
mới…
Người dân thành phố đã quen với nếp sống đô thị như xếp
hàng, đúng giờ, không xả rác, sống trong chung cư thân thiện nhưng không tò mò
chuyện riêng, giao tiếp hiện đại, đi lại bằng phương tiện công cộng, quen với
hiện tượng nhập cư. Nhưng một số yếu tố văn hoá truyền thống có phần phai nhạt như
thói quen tụ tập, mối quan hệ dòng họ, sinh hoạt gia đình trong những ngày giỗ
chạp tết nhất… Đó là những nét văn hoá được bảo tồn tốt hơn ở nông thôn, tạo
thành sợi dây cố kết gia đình, dòng họ, tạo nên tính chất “đồng hương” bền chặt
ở nơi xa quê.
Sinh hoạt văn hoá đô thị mang tính hướng ngoại, giao
tiếp với cộng đồng đa dạng, văn hoá quốc tế hiện đại. Còn sinh hoạt văn hoá
miền quê mang tính hướng nội, giao tiếp chủ yếu trong họ hàng, làng xã, tổ chức
và duy trì văn hoá truyền thống bản địa… Vì vậy không chỉ vùng nông thôn mà cả
ở đô thị đều cần có thêm nhận thức và hiểu biết, điều chỉnh và thay đổi để tăng
cường sự thông cảm, hoà nhập thực sự. Từ đó mới có chuyển biến trong lối sống
và những yếu tố văn hoá khác. Đồng thời, hai mô hình sinh hoạt văn hoá cần có
những điều kiện vật chất và thiết chế khác nhau. Do đó, nếu không có chiến lược
điều chỉnh, thích ứng từ cả hai phía một cách hài hoà, khách quan, dễ dẫn đến
hiện tượng “đô thị đồng hoá nông thôn”, xoá bỏ những giá trị truyền thống độc
đáo. Hoặc ngược lại, “nông thôn hoá đô thị”, trong không gian mang dáng vẻ đô thị nhưng sinh hoạt theo kiểu nông thôn, kiến
trúc – quy hoạch lộn xộn, không rõ chức năng, bản sắc mờ nhạt, kỹ năng “sinh
tồn” ở đô thị kém, con người thấy xa lạ không thuộc về đô thị mình đang sống…
***
Làm thế nào để tất cả người dân thành
phố Đà Nẵng cảm thấy tự hào là công dân một thành phố hiện đại, không bị “gò
bó” theo cách quản lý đô thị? Làm thế nào để văn hóa thị dân Đà Nẵng vừa tiên
tiến vừa giữ được bản sắc Xứ Quảng? Đó là những câu hỏi mà chính quyền và người
dân thành phồ cần có sự đồng tâm nhất trí để tìm ra câu trả lời.
Xu hướng phù hợp là xây dựng "văn
hoá đô thị hoà hợp" vừa bảo đảm đô thị Đà Nẵng giữ vai trò trung tâm hiện
đại; các đô thị cổ như Hội An, Tam Kỳ giữ vai trò kết nối với vùng đồng bằng và
miền núi, nơi bảo tồn bản sắc truyền thống. Trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí
văn hoá thị dân tôn trọng sự đa dạng văn hoá, không đồng nhất cưỡng chế.
Gìn giữ và tích hợp văn hóa bản địa
vào vùng đô thị mới. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống theo
hướng chuyển hóa, thích nghi với cuộc sống đô thị. Đồng thời xây dựng hạ tầng
và không gian văn hóa công cộng, các thiết chế văn hoá đáp ứng nhu cầu cụ thể của cộng
đồng dân cư từng khu vực. Đặc biệt coi trọng vai trò cộng đồng trong việc tham
gia xây dựng, giáo dục, truyền thông và phổ biến văn hoá thị dân, bởi hơn ai
hết, cộng đồng hiểu rõ việc tạo dựng văn hóa thị dân từ thực tiễn sinh động của
chính mình.
Không thể phủ nhận vai
trò của văn hoá thị dân trong phát triển đô thị, trong việc góp phần tạo dựng
và gìn giữ bản sắc đô thị. Từ những định hướng hành vi và lối sống của cư dân sẽ
tạo nền tảng xây dựng “thành phố văn minh”, “xã hội công dân”. Văn hoá đô thị với
thị dân là chủ thể, là nguồn tài nguyên cho phát triển công nghiệp văn hoá – du
lịch, nền kinh tế quan trọng của các thành phố nói riêng và của thế giới nói
chung trong thế kỷ 21.
Đám giỗ Má
Nhanh quá, mới đó mà Má xa tụi con 2 năm rồi...
Nay tụi con làm mâm cơm cúng Má, mời Ba và anh chị Hai về cùng Má. Cả nhà tụ tập đông đủ: con và chị, các cháu nội ngoại, các cháu cố, có cả các em con cậu Chín ở Cao Lãnh lên nữa. Mỗi người một tay nên mâm cúng đầy đủ, có cả những món Má thích. Bữa cơm ấm cúng.
Từ ngày Má mất sao con thấy con ngày càng giống Má :) cũng hay nhắc nhở con cháu cái này cái kia, để nghe tụi nó trả lời: mẹ giống ngoại quá rồi nha :) Ừ thì cũng đến lúc con sẽ như Má, chỉ mong sau này con được bình an tỉnh táo như những ngày cuối của Má.
Nhớ Má...
ĐẠI KHÁI NÓI CHUNG LÀ TƯƠNG ĐỐI
Không khó để đọc hoặc nghe thấy lời đánh giá, nhận xét bằng những từ này. Nó phổ biến đến mức ghép các từ lại cũng thành một câu như “trạng ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...