BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC

 Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý

BIÊN GIỚI THÁNG HAI
Tác giả: HUY ĐỨC
Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.
“NHỮNG ĐÔI MẮT”
Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.
Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.
“CUỘC CHIẾN 16 NGÀY”
Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.
Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.
Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
LẶNG LẼ HOA ĐÀO
Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.
Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
----
* Nguồn: Blog Osin.
* Bài gốc đăng trên báo Sài Gòn Tiếp Thị vào đầu tháng 2/2009, nhưng đến ngày 09/2/2009 thì bị … 404.
* Bài lấy lại từ FB Trần Đức Anh Sơn với lời bình của ông: Có rất nhiều người ở Việt Nam hiện nay không biết ngày 17/2/1979 có sự kiện gì (tôi đã hỏi 10 người là: phó chủ tịch quận, trung tá công an, thiếu tá bộ độ biên phòng, chủ tịch hội đồng trường của một trường đại học công lập, trưởng phòng điều độ điện lực, công chức viện kiểm sát cấp quận, hai tiến sĩ trưởng khoa của hai trường đại học công lập, một trưởng phòng của ủy ban kiểm tra thành ủy… trong một cuộc nhậu [vô tình] tổ chức trùng ngày 17/2 vào năm 2020 trong một khu chung cư tạ Đà Nẵng, nhưng chỉ có một người biết sự kiện này. Vì thế, hàng năm, vào ngày 17/2, tôi đều đăng các bài viết liên quan đến sự kiện này. Ai muốn tìm hiểu thêm, xin đọc ở đây: https://vi.wikipedia.org/.../Chi%E1%BA%BFn_tranh_bi%C3...



SÀI GÒN 50 MÙA QUA...

 https://doanhnhansaigon.vn/ky-su-sai-gon-50-mua-tet-qua-315818.html

Tùy bút, Nguyễn Thị Hậu      

Kể từ mùa hè 1975 tôi theo gia đình từ Hà Nội trở về Sài Gòn - Nam bộ, quê hương tôi được nghe ba má tôi nhắc suốt những năm dài “ngày Bắc đêm Nam”, đến nay tôi đã sống ở TP. HCM 50 năm rồi!

Năm mươi năm, thời gian đó gần hết một đời người. Nhưng với một thành phố có trên 300 năm tuổi, hay hơn 3000 năm của một vùng đất.... thì khoảng thời gian đó chưa thể gọi là dài! Nhìn lại, Sài Gòn – TP. HCM để lại những gì trong tâm tưởng của thế hệ trưởng thành vào thời hậu chiến, như tôi?

Một lần tôi ngồi quán cà phê với bạn. Hai đứa cùng được sinh ra ở Hà Nội cùng sống ở Sài Gòn từ mấy chục năm nay... qua thời đại học rồi cùng lập gia đình, cùng vượt qua thời bao cấp cực nhọc, chúng tôi vẫn gắn bó với nhau dù có khi đến vài năm không gặp mặt. Ngày cuối năm ngoài đường xe cộ như nêm, mọi người tất bật. Trong quán vắng miên man nhạc Trịnh, bạn chợt thốt lên, nhớ Sài Gòn quá... Câu nói của bạn giúp tôi hiểu rõ hơn cảm giác bồi hồi không lý giải được: đúng rồi, tôi cũng nhớ Sài Gòn dù đang ở giữa Sài Gòn, lạ không?

Không chỉ một lần như vậy, mà mỗi khi nhắc đến Sài Gòn, nhiều người luôn bắt gặp cảm giác bồi hồi như thế, dù bạn từ đâu đến thành phố này...

***

Sài Gòn là địa danh mang tính lịch sử - văn hóa, từ khoảng cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20 địa giới mở rộng dần theo chính nhu cầu phát triển của thành phố. Quá trình khai sinh Sài Gòn là sự hội tụ của những người “nhập cư” từ nhiều vùng miền, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Quá trình tụ cư cho thấy vùng đất lành Sài Gòn đã là điểm đến, nơi dừng chân, nơi sinh cơ lập nghiệp của biết bao “đàn chim” từ nhiều vùng đất và nguồn gốc xuất xứ khác nhau. Chỉ kế đến những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, Sài Gòn đã dung chứa trong nó hàng triệu con người, cũng chia sẻ hàng triệu cơ hội kiếm sống trong đó có hàng ngàn cơ may thành đạt, giàu có. Hiện nay Sài Gòn là thành phố đông dân nhất nước và cũng là nơi người nhập cư nhiều nhất.

Ở Sài Gòn có rất nhiều “hội đồng hương”, gần như có đủ tất cả các tỉnh thành thậm chí có cả hội đồng hương cấp huyện. Người các tỉnh thành vào đây giữ được “cá tính văn hóa” riêng của quê hương mình, nhất là ngôn ngữ và ẩm thực là hai yếu tố được nhận biết rõ ràng nhất. Ở Sài Gòn tiếng nói các vùng miền hòa lẫn vào nhau, không phân biệt “quê” hay “thành”, không kỳ thị “Sài Gòn” hay “tỉnh”. Chỉ cần buổi sáng ngồi ở các quán cà phê bạn có thể nghe thấy giọng nói cả ba miền Nam Trung Bắc, có thể nhận ra tiếng miền Tây, tiếng Hà Nội, tiếng Quảng, tiếng Huế, chưa kể bây giờ còn có nhiều người Hàn, người Nhật, người các xứ Âu Mỹ đến làm ăn tại Sài Gòn.

Các món ăn ở Sài Gòn thì chẳng thiếu  đặc sản của nơi nào: Bánh Huế, cơm hến, mì Quảng, bùn bò Huế, phở Hà Nội, bánh đa cua, nem vuông Hải Phòng, bún đậu mắm tôm “đặc Bắc”, bún mắm, bún nước lèo miền Tây, hủ tíu Sa Đéc, Mỹ Tho, Nam Vang, bún riêu bắc, bún riêu nam, bánh xèo “Bà Mười Xiềm” Cần Thơ, bánh khọt Cô Ba Vũng Tàu, cơm lam thịt trâu gác bếp Tây Bắc… Quán ăn Tây, Nhật, Hàn, Thái, tiệm Fast Food khắp nơi…  Ẩm thực và ngôn ngữ ở Sài Gòn như một “liên hiệp quốc” chung sống hòa bình, thân ái, chẳng ai muốn loại trừ ai, mà có muốn thì cũng không được, miễn là phong cách làm ăn “như người Sài Gòn” thì sẽ tồn tại.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Sài Gòn đã dung nạp, tiếp nhận nhiều các yếu tố văn hóa như phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, tiếng nói, ẩm thực, trang phục… của các cộng đồng dân cư khác nhau. Nhưng quan trọng là Sài Gòn không làm thay đổi những nét văn hóa riêng của từng cộng đồng nuôi dưỡng tất cả để tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hóa Sài Gòn. Tôn trọng sự đa dạng, Sài Gòn có sự bao dung làm nên “cái nôi cho những tài năng đến đây và tỏa sáng. Như nhiều nhạc sĩ, ca sĩ người Hà Nội vào sinh sống ở Sài Gòn giữ được “chất Hà Nội” qua tác phẩm, qua giọng hát, qua phong cách sống. Có lẽ nhờ đó mà có rất nhiều bài hát hay về Hà Nội đã được sáng tác tại đây, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ thành danh từ đô thị này. Đó là còn chưa kể đến những nhân tài, trí thức của các lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật khác, các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, kinh tế... bên cạnh hàng triệu con người bình dị đến đây “kiếm sống”, nhưng rồi dần đần đã trở thành “người Sài Gòn”.

Nhiều lần tôi thử lý giải về sự bao dung nâng đỡ của Sài Gòn đối với những gì còn yếu thế, mới mẻ, thậm chí còn chưa kịp định hình. Không thể không bắt đầu từ lịch sử. Là vùng đất chưa kịp có ký ức lâu dài nếu ta coi yếu tố thời gian lịch sử là quan trọng nhất trong việc hình thành ký ức và truyền thống: Sài Gòn 300 năm lại là vùng đất “làm ăn”, trung tâm kinh tế, khác tính chất trung tâm chính trị của Thăng Long hay Huế. Do không chịu sự níu kéo của truyền thống quá sâu nặng nên dễ tiếp nhận cái mới, đồng thời chấp nhận và thích nghi để không “đồng hóa” cái mới, cái khác. Người Sài Gòn có tính thực tế cao nhưng không bị chuyển thành sự tư lợi mà ngược lại tính cộng đồng cũng cao, việc xã hội, Làm “việc nghĩa” được coi là chuyện bình thường. Lấy hiệu quả việc “làm ăn” là quan trọng nhất, mọi cái khác coi là “chuyện nhỏ”, “làm ăn được” còn để mình “sống được” và có thể chia sẻ, đùm bọc người khác.

Nói chuyện với nhiều người bạn Mỹ, các bạn đều nhận xét rằng, có gì đấy khá giống nhau giữa sự hình thành, phát triển của vùng đất Sài Gòn với nước Mỹ nói chung và với những thành phố lớn như NewYork chẳng hạn. Và nếu như ở nước Mỹ có một ngày Thanksgiving thì tôi luôn mong rằng, những người đã đến Sài Gòn sinh sống làm ăn, hãy có một lần thôi, nhớ đến sự rộng rãi sẻ chia và tình nghĩa của thành phố và con người vùng đất này.

***

Mùa Giáng Sinh năm nay thời tiết Sài Gòn thật tuyệt, buổi sáng không khí se se lạnh, trưa chiều vẫn nắng nhưng không nóng, dù mọi năm thời gian này Nam bộ đã vào mùa nắng gay gắt. Sáng nay đi có việc qua khu vực trung tâm thành phố, tôi ngắm nhìn cuộc sống sôi động diễn ra trên từng con đường, đắm mình trong không khí Giáng Sinh rộn rã, chợt nhận ra Sài Gòn vừa quen vừa lạ... Những nơi chốn quá quen thuộc luôn mang lại cho sự bất ngờ, nếu một ngày nào đó mình bỗng nhiên “sống chậm”. Sài Gòn luôn là một nơi như thế.

Đặc biệt những ngày này, khu vực chợ Bến Thành đến ga Metro trung tâm luôn đông đúc. Cả tháng nay tuyến metro số 1 đã chạy thử, hôm nay là ngày vận hành chính thức nên nhiều người dân thành phố náo nức “đi cho biết”. Dù tôi từng nhiều lần đi metro ở nước ngoài nhưng chứng kiến niềm vui của bà con, cũng là chứng kiến một thành quả lớn của thành phố, tôi thật vui và xúc động...

Tuyến metro số 1 hoàn thành đánh dấu sự khởi đầu mới. TP. HCM sẽ bước tiếp những bước đi thần kỳ trong 50 năm nữa! Bởi vì sức sống Sài Gòn luôn được nuôi dưỡng từ sự cởi mở, bao dung, bởi vì dù bao nhiêu thời gian qua đi thì tôi vẫn tin rằng, Sài Gòn – TP. HCM luôn là “vùng đất lành” của biết bao con tim và khối óc ở cả trong và ngoài nước.

TP. Hồ Chí Minh, 22.12.2024



KÝ ỨC NHỮNG MÙA TẾT

 https://tuoitre.vn/ky-uc-nhung-mua-tet-20250112135717024.htm


Nguyễn Thị Hậu

 

Vào khoảng thời gian cuối năm, dù bận rộn đến đâu thì mỗi người cũng dành cho mình những phút giây sống chậm, khi ký ức của những mùa tết xa xưa lần lượt quay về…

Cái tết đầu tiên tôi có mặt trên đời, năm ấy Hà Nội rét đậm. Tháng chạp mưa phùn gió bấc, những con phố ẩm ướt những cây bàng như muốn mọc rêu trên cành khẳng khiu trong chiều đông xám ngoét. Bỗng một sáng kia chồi nhu nhú lên báo hiệu hơi ấm mùa xuân đã về, rồi chỉ tuần sau lộc non xanh mướt… Trên phố hoa tết rực rỡ đầy sức sống. Tết ấy, gia đình tôi vui hơn vì sự có mặt của cô con gái út là tôi. Tết ấy, sau mấy năm tập kết ra Bắc, lần đầu trong nhà có một cành đào rực rỡ, ba má tôi phải quen cảnh “ngày Bắc đêm Nam” vì đường về quê đã trở nên xa thăm thẳm...

Từ 1954 đến năm 1975 trở về quê hương Nam bộ, gia đình tôi đã có 21 cái Tết trên đất Bắc. Ba tôi thường ăn Tết xa nhà, ông cùng các nghệ sĩ Nam bộ đi khắp đất nước biểu diễn phục vụ đồng bào, có năm ông đi dọc đường Trường Sơn biểu diễn tại các binh trạm phục vụ bộ đội, thương binh… Vì vậy ngày Tết thường chỉ có mấy mẹ con tôi cùng láng giềng trong khu tập thể, phần lớn các gia đình cũng vắng đàn ông. Nhưng Tết nào ba tôi không đi xa thì nhà tôi như “câu lạc bộ Thống nhất” vì có nhiều chú bác tập kết ghé về ăn Tết. Ngày Tết của gia đình tôi bao giờ cũng thấm đẫm hương vị Tết Nam bộ mang đặc trưng rất riêng, ấy là mùi bánh tét bánh ít gói bằng lá chuối, mùi thịt kho hột vịt nước dừa, dưa giá củ kiệu và nhiều món ăn Nam bộ khác.

Cũng như mọi gia đình ở miền Bắc lúc ấy, ngày thường có thể rất thiếu thốn nhưng ngày Tết phải đủ đầy nhất những gì có thể mua sắm được. Gần Tết là việc xếp hàng mua các loại thực phẩm bánh mứt kẹo theo tem phiếu, mỗi nhà được một túi nilon trong có hộp mứt bằng giấy bìa vẽ cành đào, phong pháo đỏ, gói kẹo bi, gói bánh, vài bao thuốc lá, miếng bóng (da lợn khô), gói miến, gói bột ngọt nhỏ xíu. Chỉ thế thôi nhưng có cái túi quà Tết trong nhà là thấy Tết đã về. Rồi chị em tôi chia nhau xếp hàng mậu dịch mua đậu xanh, gạo nếp, nước mắm… Củi để nấu bánh phải lo kiếm để dành từ vài tháng trước. Ngày nghỉ má tôi ra chợ ngoại ô Hà Nội để tìm mua lá chuối về gói bánh tét. Những năm sơ tán về nông thôn thì má tôi chỉ đi một vòng quanh xóm là có thể xin được một ôm đầy các tàu lá chuối to đẹp, không phải lo thiếu khi gói bánh tét.

Ngày Tết càng gần má tôi càng tất bật. Mỗi khi đi làm về trong cái giỏ xe có thêm bó măng khô thơm mùi nắng, gói miến dong thơm mùi đất ẩm… Có khi còn mua được ở chợ quê mấy cân gạo nếp thơm mùi rơm mới, cân đậu xanh hạt tròn đều xanh mướt. Có năm ba tôi đi công tác Tây Bắc mang về một xâu nấm hương mộc mạc mùi rừng núi. Khoảng qua rằm tháng Chạp các cửa hàng gia công bánh “quy gai quy xốp” bắt đầu đông khách từ sáng đến tối mịt. Mỗi người mang một túi nào bột nào đường với mấy quả trứng, có khi thêm cục bơ bé xíu. Sau cả ngày xếp hàng chờ đợi thì mang về một túi nilon đầy những chiếc bánh thơm phức ngọt ngào. Bọn trẻ ở nhà nóng ruột chờ đợi để được ăn thử mấy chiếc bánh vụn, chao ôi là ngon!

Những ngày sát Tết khu chợ Đồng Xuân – Bắc Qua, chợ hoa Hàng Lược đông người chen chúc mua sắm… Ngoài đường rộn ràng những chiếc xe đạp cột sau xe mấy bó lá dong, khi là cành đào sớm, trong khu tập thể nhà nhà rộn ràng gói bánh. Mùi đậu xanh chín, mùi thịt ướp tiêu hành, mùi khói bếp, hơi nước từ nồi bánh đang sôi tỏa ra một mùi thơm “tổng hợp” của Tết. Đêm tới bếp đỏ lửa, hai ba nhà chung nhau nấu một nồi bánh, trẻ con thì náo nức từ ngày nghỉ tết, mong được khoe quần áo mới còn cất trong cái rương gỗ sực mùi băng phiến… Chiều ba mươi Tết nhà nào cũng nấu nồi nước mùi già, nước bồ kết để tắm gội “tất niên”. Mưa phùn như rây lạnh buốt, trong nhà ấm áp hương thơm nhang khói, bình hoa thược dược rực rỡ cắm lẫn vài cành violet tím và lay ơn trắng đặt trên bàn nước giữa nhà… Mọi người đi chúc tết bà con, láng giềng, ít đi chơi xa…

Qua đúng ba ngày Tết sinh hoạt trở lại bình thường, dư vị ngày Tết có chăng chỉ là những cành đào nở muộn…

***

Mùa xuân Bính Thìn 1976, mùa xuân thống nhất đầu tiên tràn ngập nụ cười và nước mắt. Khắp mọi miền đất nước gia đình nào cũng mong ngày đoàn tụ sum họp. Năm đó từ dịp Giáng sinh không khí Sài Gòn bỗng nhiên se lạnh, trên đường phố Sài Gòn xuất hiện những chiếc áo gió, khăn quàng, thậm chí cả áo len áo khoác khiến tôi tưởng như mình còn ở mùa đông Hà Nội. Những ngôi nhà thờ chăng đèn kết hoa rực rỡ. Chợ Bến Thành, Chợ Bình Tây và nhiều chợ lớn nhỏ trong thành phố đèn sáng suốt đêm, hàng hoá ê hề thượng vàng hạ cám có hết… Hàng đoàn ghe hàng hoá, trái cây, ghe bông từ miền Tây lên… đậu kín bến Bình Đông và nhiều kinh rạch trong thành phố.

Gia đình tôi được ăn cái Tết đầu tiên ở quê hương sau những năm dài xa cách. Mấy ngày Tết ba má tôi đều phải trực cơ quan, vì vậy chị em tôi về Cao Lãnh ăn Tết với gia đình bên ngoại. Ngày 23 tháng Chạp chúng tôi ra “Xa cảng miền Tây” mua vé xe về quê. Trên đường quốc lộ nườm nượp xe hơi xe máy, sau bao năm chiến tranh loạn lạc, cũng như chị em tôi, hoà bình rồi nhiều người mới lần đầu về quê ăn Tết.

Khi ấy Cao Lãnh còn là một thị xã nhỏ, chỉ có dãy phố ven sông và ngôi chợ là nhộn nhịp vào buổi sáng. Nhưng từ rằm tháng Chạp thì sáng sớm đến đêm khuya trên sông Cao Lãnh ghe xuồng qua lại không ngớt, ghe trái cây, bông kiểng nhiều nhất, rồi ghe chiếu mới, ghe than ghe bếp ông lò... chiều tối đèn điện sáng rực cả một khúc sông. Các gia đình ở quê còn tự làm các loại bánh mứt ăn tết: bánh kẹp, bánh bông lan, bánh phồng, mứt dừa mứt tắc… Đường làng thơm nức mùi bánh mứt ngọt ngào.

Ngày mùng hai Tết hai chị em tôi theo xe đò lên Sài Gòn để hưởng mấy ngày Tết thành phố. Nhiều đường phố vẫn còn vắng nhưng khu trung tâm thì náo nhiệt suốt ngày. Những ngôi nhà mặt tiền treo cờ đỏ sao vàng và cờ nửa xanh nửa đỏ sao vàng. Chợ hoa Nguyễn Huệ mở từ ngày 23 Tết đã kết thúc vào chiều ba mươi, trả lại con đường rộng rãi thoáng đãng tràn gió mát từ sông Sài Gòn qua những kiot bán hoa, văn phòng phẩm, báo chí, đồ lưu niệm... Thương xá Tax, bùng binh cây liễu và đài phun nước, trước cửa Uỷ ban nhân dân… tấp nập người dạo chơi, chụp hình, rất nhiều áo dài xen lẫn quân phục bộ đội. Nhiều người chở cả gia đình trên chiếc xe gắn máy, lá cờ gài trên tay lái, chùm bong bóng nhiều màu cầm tay chạy vòng vòng qua các đường phố. Thỉnh thoảng có chiếc xe jeep cắm cờ chạy trên đường phố, trên xe là mấy anh bộ đội giải phóng quần áo tinh tươm nai nịt gọn gàng.

Thảo cầm viên Sài Gòn là nơi tụ hội náo nhiệt nhất. Những ngày Tết không chỉ có người Sài Gòn mà người các tỉnh lên thành phố đều muốn “vô sở thú” vì trong đó có nhiều loài hoa đẹp, thú lạ, đủ loại hàng quán, lại còn có xiếc mô tô bay, có thợ chụp hình dạo lấy ngay, vẽ chân dung, cắt giấy hình người... Còn trong vùng Chợ Lớn thì đường phố đỏ xác pháo, nhà nào cũng câu đối đỏ, đèn lồng và hình rồng trang trí ở cửa. Các ngôi chùa nghi ngút khói nhang suốt mấy ngày Tết, người đến lễ Phật cầu may đông đúc nhộn nhịp, ra về ai cũng cầm trên tay một cây nhang lớn lấy lộc đầu năm. Hàng quán ở Chợ Lớn từ đại lộ đến hẻm nhỏ bán suốt ngày đêm.

Những năm sau đó cả nước lâm vào tình trạng khó khăn, thiếu thốn. Tình trạng “ngăn sông cấm chợ” làm cho có lúc Sài Gòn còn thiếu đói hơn Hà Nội khi trước… Mỗi cái Tết là cả nhà phải cùng gom góp tiêu chuẩn của từng người. Ba tôi ghi trong nhật ký: Tết 1985, nhờ có “ba lợi ích” nên năm nay ăn Tết đỡ hơn mọi năm. Theo thứ tự “đóng góp” thì nhiều nhất là vợ chồng thằng Hai vì làm kinh doanh, rồi đến ba má vì có tiêu chuẩn thành phố hỗ trợ, cuối cùng là con út làm cô giáo!

***

Phải đến sau 1990 chế độ bao cấp mới dần bị xoá bỏ, đời sống xã hội hồi phục, thể hiện rõ nhất ở những dịp năm hết Tết đến. Cũng từ đó Tết cổ truyền đã có nhiều biến đổi, từ “truyền thống, hướng nội” sang “hiện đại, hướng ngoại”. Đời sống xã hội và sinh hoạt gia đình ở thành phố hay thôn quê đều thay đổi ít nhiều.

 Ở các thành phố lớn với nhịp sống đô thị và công nghiệp, tết với ý nghĩa đón chào năm mới đã đến sớm hơn từ dịp Noel và Tết dương lịch. Nhưng các đô thị cũng là nơi có rất nhiều người nhập cư nên ngày Tết còn nhắc nhở ý nghĩa sum họp gia đình. Vì vậy chuyện tàu xe “về quê ăn tết” là sự quan tâm chung từ mấy tháng trước, cao điểm trong tháng chạp. Rồi từ ngày “ông Táo về trời” trên các nẻo đường đi về các tỉnh tấp nập xe đò lớn nhỏ chạy suốt ngày đêm, xe lửa tăng chuyến mà vẫn kín hết các toa, sân bay đông nghẹt từ sáng sớm đến đêm khuya, cùng hàng đoàn người chạy xe máy trên các quốc lộ… Các thành phố ngày Tết vắng hơn, yên tĩnh lạ lùng…

Ngày càng có nhiều dịch vụ cho ăn Tết và chơi Tết, từ các loại thực phẩm đến các tour du lịch. Ở đâu các siêu thị, các chợ cũng bán những giỏ quà tết từ sớm, mẫu mã bao bì ngày càng đẹp và hiện đại, có đủ mọi giá tiền để đáp ứng nhu cầu biếu tặng, mang về quê… Đồ ăn thức uống không phải lo lắng mua sắm như trước vì chỉ cần đi siêu thị một buổi là có đầy đủ từ đồ hộp đồ khô đến hàng tươi sống... Hương vị ngày Tết dường như không còn ngon như xưa vì “thịt mỡ dưa hành bánh chưng mứt kẹo” ngày thường muốn ăn lúc nào cũng có. Dường như sự bận rộn của lo lắng, những nghĩa tình trong thời thiếu thốn, niềm vui ấm áp khi sum họp gia đình… đang mất dần theo ký ức của thế hệ tôi. Tất cả những điều đó làm cho không khí Tết nay có một chút ngậm ngùi vì cái vẻ “truyền thống mà hiện đại” của nó.

Những thay đổi của Tết thấy rất rõ ở TP. Hồ Chí Minh – một đô thị có quá trình “hiện đại hóa” nhanh chóng. Người Sài Gòn trọng lễ nghĩa nhưng không quá câu nệ chuyện phải đi thăm viếng họ hàng vào dịp Tết, họ có thể đến thăm vào trước hay sau Tết miễn là thuận tiện cho cả hai bên. Khác với Hà Nội, người Sài Gòn thường đi chơi trong những ngày nghỉ, ngày tết: đến các khu vui chơi giải trí, đi xem phim nghe ca nhạc, đi ăn hàng quán, bây giờ là đi du lịch, tham quan Đường Hoa, Đường Sách là “phong tục” văn hóa mới của người Sài Gòn... Nhiều hoạt động văn hóa được tổ chức, lễ hội được phục hồi thể hiện sự bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống đồng thời thu hút khách nước ngoài.

Đặc biệt ở TP.HCM vào dịp Tết có những nhóm gia đình, bạn bè rủ nhau đi đến những vùng sâu vùng xa, nơi còn nhiều người khó khăn. Họ chia sẻ với bà con những món quà Tết thiết thực, tặng người già trẻ nhỏ những bộ quần áo mới, “của ít lòng nhiều” thể hiện tinh thần tương thân tương ái của người Sài Gòn. 

***

Tết truyền thống đã thay đổi theo sự đổi thay của xã hội, mỗi năm nhìn lại dù ký ức níu giữ đến đâu thì cũng không ai muốn quay lại những cái Tết thời bao cấp! Tết nay là tết của năm thứ 50 đất nước hoà bình – thống nhất. Hai thế hệ đã được sinh ra và lớn lên từ ngày đất nước thoát khỏi binh đao. Nếu thế hệ ông cha có công mang lại nền hoà bình thì thế hệ sau 1975 là thế hệ xây dựng đất nước, đó là các thế hệ rường cột của hôm nay và ngày mai. Mỗi thế hệ có trọng trách riêng, làm tròn trọng trách của mình, tôn trọng vai trò của thế hệ sau, như vậy mới có thể giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp.

 

Sài Gòn, 24/10/2024

KHƠI THÔNG DÒNG DI SẢN TỪ BẢO TÀNG

 https://nguoidothi.net.vn/ve-can-tho-xem-cam-thi-46872.html 

Từ khi Luật Di sản Việt Nam ra đời (2001) đến nay hệ thống bảo tàng ngoài công lập với nhiều loại hình khác nhau đã dần dần hình thành. Hệ thống này có các loại hình bảo tàng về khảo cổ học (cổ vật...), dân tộc học, thiên nhiên, nghệ thuật, kỹ thuật, lịch sử (lịch sử chiến tranh…), con người, nhân vật và gia đình… Có một số bảo tàng mang tính chất tổng hợp, ở đó trưng bày về nhiều đối tượng/loại hình di sản khác nhau, tùy theo mối quan tâm riêng của nhà sưu tập.

Tuy nhiên từ nhiều năm nay, trong những chuyến khảo sát của tôi ở các tỉnh thành trong cả nước, tôi luôn nhận thấy một thực tế. Đó là,  số lượng bảo tàng ngoài công lập vẫn còn quá ít ỏi so với tiềm năng, trữ lượng những di sản văn hóa đang được nhiều cá nhân, cộng đồng lưu giữ hoặc sở hữu. Mỗi địa phương đều có các nhà sưu tập còn chưa “xuất đầu lộ diện”, mặc dù trong giới sưu tầm cũn

g như giới bảo tàng có thể đã rất “rành nhau”.

Gần đây nhất tôi có dịp đến thăm nhà sưu tập Nguyễn An Hà và Bảo tàng Cầm Thi tại thành phố Cần Thơ. Nhà sưu tập Nguyễn An Hà – tính về tuổi tác là thuộc thế hệ thứ ba những nhà sưu tập cổ vật ở Nam bộ - mà thế hệ đầu tiêu biểu là nhà văn hóa Vương Hồng Sển. Đây là thế hệ lớn lên sau ngày đất nước hòa bình thống nhất, có nhiều cơ hội tiếp cận nhiều nguồn tài liệu, hiện vật kể cả những tài liệu quân sự, chính trị mà do trong một thời gian dài, loại tư liệu hiện vật này chưa được đánh giá đúng giá trị lịch sử - văn hóa và khoa học. Điều này có thể nhìn thấy ở khối lượng lớn hiện vật đa dạng về loại hình và chất liệu, tính chất và niên đại... mà nhà sưu tầm Nguyễn An Hà đang lưu giữ.

Ngôi nhà anh ở có khuôn viên rộng rãi nên anh đã sử dụng một phần thành nơi trưng bày di vật thời chiến tranh: những lô cốt, công sự của lính Mỹ được phục dựng lại tỷ lệ 1/1 bằng vật liệu và hiện vật gốc như súng, đồ dùng sinh hoạt, các loại quân phục và trang thiết bị khác... Ngoài ra còn có ba chiếc xe tải lớn đã sử dụng trong chiến tranh cũng được anh đưa về trưng bày và bảo quản tại đây. Cũng trong khuôn viên này còn có những chiếc cổng xưa đúc bằng gang có chi tiết hoa văn độc đáo với phong cách trang trí thời Pháp. Đó là những chiếc cổng của các công trình nhà xưa, dinh thự nổi tiếng quanh vùng được anh sưu tầm từ rất sớm.

Trong ngôi nhà của anh Nguyễn An Hà nơi nào cũng như “kho hiện vật” mới tạm sắp xếp còn chưa kịp phân loại một cách có hệ thống theo chất liệu hay loại hình, niên đại. Anh giới thiệu với chúng tôi bộ sưu tập tranh của họa sĩ Thái Đắc Phong đã được trưng bày tại TP. Hồ Chí Minh trong không gian triển lãm De La Sot của nghệ sĩ Xuân Phượng – người được mệnh danh là “bà đỡ mát tay” đưa hội họa Việt Nam ra thế giới. Họa sĩ Thái Đắc Phong sinh sống ở miền Tây, ông từng hoạt động qua hai cuộc kháng chiến. Cơ may đưa anh Nguyễn An Hà gặp gỡ ông và từ đó, những bức tranh của ông nằm im nhiều năm nay được “sống dậy”, bước ra với người thưởng lãm, nhận được rất nhiều lời đánh giá cao từ các họa sĩ, các nhà sưu tập và công chúng. Qua cuộc triển lãm này Nguyễn An Hà cũng được nhìn nhận “là người gìn giữ ký ức và thời gian, qua công lao bảo tồn những di sản văn hóa nghệ thuật của một vùng đất”, vì anh không chỉ có trong tay sưu tập tranh của họa sĩ Thái Đắc Phong mà còn có tranh của một số họa sĩ nổi tiếng khác.

Cũng như một số nhà sưu tập phía Nam, anh Nguyễn An Hà cũng có những sưu tập hiện vật thời kỳ trước 1975 kéo dài đến thời bao cấp thập niên 1989 – 1990. Mấy chục két nước ngọt còn đóng nguyên chai nhãn hiệu phổ biến như Chương Dương, bia Con Cọp, những vật dụng xưa cũ khác như máy hát, xe honda, xe xích lô máy, máy may... Một “kho” áo dài xưa cùng hình chụp chủ nhân trong bộ quần áo đó... Một thời đã qua với những sinh hoạt đời thường bỗng “sống dậy” trong ký ức của bất cứ ai nhìn thấy những đồ vật quen thuộc này. Đặc biệt với người nghiên cứu văn hóa xã hội thì những tập báo và tạp chí cũ, trong đó có chồng Báo Xuân có hình bìa được các họa sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn thể hiện, sưu tập các tờ rơi giới thiệu của các rạp chiếu phim... vô cùng hữu ích. Đó là các bộ báo quý hiếm như An Hà báo (của hai tỉnh An Giang – Hà Tiên thời chống Pháp), Gia Định báo, Nông cổ mín đàm... Từ sưu tập báo chí này, vào năm 2023 anh Nguyễn An Hà đã được Bảo tàng Báo chí Việt Nam mời dự Tọa đàm trưng bày “Chuyên đề báo Tết 1865 – 2000”.

Trong “kho mở” của nhà sưu tập Nguyễn An Hà còn có rất nhiều loại hình hiện vật khác: những bức hình chân dung cá nhân, gia đình, nhiều loại hồ sơ giấy tờ như các bản vẽ công trình trường học, nhà máy, dinh thự, kể cả bản vẽ thiết một đoạn đường xe lửa hay một dòng kinh xáng... Tất cả được anh Hà sưu tầm từ những chồng giấy tờ, hồ sơ bị bỏ đi, nhặt nhạnh từ dưới tầng hầm các tòa nhà bị đập bỏ để xây mới... cho thấy sự tinh tường của nhà sưu tập, sớm nhận biết giá trị độc đáo của những thứ “ve chai” và kiên trì lưu giữ. Nay những hiện vật đó đã trở thành một phần của lịch sử đời sống của thành phố Cần Thơ nói riêng và Nam bộ nói chung. Đó là chưa kể đến loại hình cổ vật. Nhìn một số “gốm Cây Mai” ở đây tôi đã phải hỏi ngay xem anh còn lưu giữ những gì nữa? Tiếc là phần lớn sưu tập này anh đã trao đổi để có kinh phí sưu tầm loại hiện vật khác. Đặc biệt anh còn có sưu tập tài liệu hiện vật của một số nhân vật thuộc lĩnh vực lịch sử quân sự. Gần đây anh cũng đã cung cấp cho một số nhà nghiên cứu về lĩnh vực này.

Có thể nói, hiện vật của nhà sưu tập Nguyễn An Hà mang tính tổng hợp nhưng đều được sưu tầm có chủ đích, vì vậy tuy chưa trưng bày “ra tấm ra món” nhưng anh đã có sự hiểu biết sâu sắc về từng sưu tập, thể hiện qua cách anh giới thiệu và trao đổi với chúng tôi. Dù Bảo tàng Cầm Thi chỉ mới phục vụ chủ yếu là khách tại khu du lịch sinh thái này, nhưng nội dung của bảo tàng – nếu được thể hiện bằng một hệ thống trưng bày có thể không lớn nhưng khoa học và chọn lọc – thì hoàn toàn có khả năng tiếp đón một lượng khách lớn hơn và đa dạng hơn.

Theo sự hiểu biết của tôi thì thực trạng sưu tầm, bảo quản và giới thiệu các sưu tập hiện vật tại Bảo tàng Cầm Thi của nhà sưu tập Nguyễn An Hà không phải là cá biệt. Tôi từng được tiếp xúc với những nhà sưu tập cũng có số lượng hiện vật rất lớn, theo nhiều chủ đề khác nhau, bằng nhiều chất liệu nhiều loại hình... Nhưng hiện nay vẫn chưa giới thiệu rộng rãi với công chúng.

Qua trao đổi với các anh chị chủ nhân sưu tập, điều đầu tiên có thể nhận biết là các nhà sưu tập có thể có nhiều loại hiện vật khác nhau. Sự phong phú của các loại hiện vật “thời đã qua” tôi tạm chia làm bốn chủ đề chính: 1/cổ vật, 2/hiện vật dân tộc học, 3/hiện vật thời chiến tranh, 4/hiện vật thời bao cấp. Mỗi chủ đề có nhiều nội dung khác nhau dựa vào việc phân chia chất liệu, loại hình... Có những hiện vật có thể nằm ở nhiều nội dung, hoặc thuộc về các chủ đề khác nhau. Sự đa dạng của hiện vật phản ánh sự đa dạng của đời sống xã hội ở mỗi một địa phương, vùng miền, thậm chí phản ánh cả những hiện tượng mà lịch sử chưa ghi chép.

Đây là điểm khác biệt đầu tiên so với các bảo tàng công lập – nơi thường có một chủ đề cơ bản là “truyền thống lịch sử” từ thời nguyên thủy đến hiện đại, mang tính khái quát. Vì vậy có sự trùng lắp về nội dung giữa nhiều bảo tàng địa phương. Còn ở các sưu tập cá nhân có thể trưng bày theo nhiều “câu chuyện” khác nhau, mang đến sự gần gũi và thân thiện hơn với người xem.

Thứ hai, đó là sự đam mê của các nhà sưu tập, đến mức có thể “hy sinh, đánh đổi” nhiều thứ khác để có bằng được những hiện vật quý hiếm hoặc yêu thích. Cơ chế tài chính cá nhân tạo điều kiện cho các nhà sưu tập linh hoạt trao đổi hay mua bán hiện vật, ngoài ra họ còn có không gian để lưu giữ, tạm thời bảo quản hiện vật ở mức tối thiểu. Nhiều nhà sưu tập dành phần lớn không gian sắp xếp hiện vật như “kho mở” theo từng chủ đề, đây là cách thức phù hợp nhất hiện nay để có thể giới thiệu các sưu tập hiện vật. Đồng thời cũng giúp các nhà sưu tập “kiểm kê” biết còn thiếu hay đã dư loại hiện vật nào có thể trao đi đổi lại. Từ đó khi xây dựng bảo tàng có thể lựa chọn trưng bày trước nội dung độc đáo, “không đụng hàng”.

Thứ ba. Để hình thành một bảo tàng thì ngoài số lượng hiện vật, chủ đề các sưu tập hiện vật thì nguồn gốc và niên đại hiện vật là những tiêu chí quan trọng. Không chỉ các cổ vật mới cần định tuổi mà các hiện vật khác cũng cần có một (khung) niên đại cụ thể (sản xuất vào thời gian nào), nguồn gốc rõ ràng (sản xuất, làm ra ở đâu), xuất xứ (tìm thấy, hoặc mua từ đâu). Tuy nhiên, có thể nói khá nhiều hiện vật trong các sưu tập chưa có thông tin này, hoặc có thể chủ nhân các sưu tập không tiết lộ. Tuy nhiên, hồ sơ hiện vật bảo tàng nếu thiếu nội dung này thì việc xác định giá trị hiện vật sẽ thiếu tính khoa học.

Thứ tư. Nhiều nhà sưu tập chỉ muốn trưng bày hiện vật như “kho mở” mà chưa mặn mà với việc thành lập bảo tàng tư nhân, thậm chí chưa muốn công khai sưu tập của mình. Có thể nhận thấy điều làm cho họ ngần ngại khi muốn thành lập bảo tàng là ở thủ tục hành chính, cùng với thái độ “không nhiệt tình” của cán bộ văn hóa địa phương. Nhiều nhà sưu tập và nhà nghiên cứu cho rằng, các điều khoản về điều kiện cho phép thành lập bảo tàng ngoài công lập như trong Luật Di sản văn hóa hiện nay quy định là chung chung, nhiều điều không thiết thực, bất cập, nặng về “quản lý” mà không thuận tiện cho cá nhân, cộng đồng tham gia hoạt động bảo tàng.

Gần đây ở nước ta đã có một số bảo tàng ngoài công lập gây được sự chú ý của cộng đồng bởi nội dung phong phú và hình thức trưng bày hiện đại, hấp dẫn. Khi một tư nhân hoặc tổ chức quyết định thành lập bảo tàng thì họ đã có số vốn lớn bằng hiện vật, cơ sở vật chất và sẵn sàng đầu tư xây dựng bảo tàng hiện đại, theo xu hướng phát triển kinh tế di sản. Làm thế nào để “khơi thông” nguồn vốn xã hội rất lớn này là một câu hỏi quan trọng mà các cấp quản lý ngành văn hóa cần phải tìm ra câu trả lời nhanh chóng.


 Nguyễn Thị Hậu. 


Một số bìa báo Xuân xưa trong bộ sưu tập của Nguyễn An Hà.



 

 

HẾT TẾT

Ngày càng thấy, lúc đầu tết như một thủ tục “đang yên đang lành tự nhiên tết”, nhưng rồi khi bị cuốn vào những chuẩn bị, mua sắm, nấu nướng, thăm hỏi... bỗng nhiên tết trờ thành những cảm xúc tưởng cũ mà mỗi năm mỗi khác...
Năm nay nhà mình tết đơn giản hơn mọi năm. Hoa tết thì có cô cháu trồng tặng mấy chậu vạn thọ, bánh chưng bánh tét được biếu, cả mấy giỏ quà tết nữa... Thế mà hai mẹ con mình vẫn 2, 3 lần đi chợ tết. Không mua gì nhiều nhưng đi để hòa vào không khí chợ tết, đi chợ như để thấy lại sự bận rộn ngày xưa của má.

Tết ở thành phố mà đi đến đâu cũng thấy trang trí “combo” quê kiểng: tấm phông đỏ rực vẽ hoa đào hoa mai “chúc mừng năm mới” kèm bộ bàn ghế tre, bộ ấm chén, vài cái bánh chưng bánh tét và miếng miếng dưa hấu (giả trân), có nơi còn thêm cái mái tranh tre nứa lá... Đến Pé Na ở ngay bến Bạch Đằng cũng khăn rằn nón lá. Đành rằng “người thành phố ai cũng có một nhà quê”, nhưng đến hai chục năm nay cứ mỗi cái tết lại thấy TPHCM có nhiều cảnh nông thôn hơn. Là một TP hiện đại từ khi khởi lập, mà giờ hầu như trong lễ, hội không nhìn thấy sự hiện đại đâu cả, cảnh quan giống hệt như ở các tỉnh!

Lại nhớ, hồi còn đi làm có lần trong cuộc họp bàn về lễ hội Tết, mình có đề xuất để đổi mới, hiện đại thì nên cho thi ý tưởng thiết kế đường hoa Nguyễn Huệ và trang trí đường phố, xã hội hóa ngay từ ý tưởng chứ không chỉ từ kinh phí thực hiện. Và cần để nhiều người trẻ tham gia để họ thấy TP là của họ, họ thuộc về TP này. Lúc ấy một vị trả lời: “chị H nói vậy chứ tôi thấy mình trang trí vậy các tỉnh khen ghê lắm!” Chắc vì được các tỉnh khen (và cũng làm y chang) nên TP cứ phát huy đến nay hơn chục năm nay không thay đổi chủ đề.

Chắc sẽ có người nói mình "nhiều chuyện", trang trí cảnh gì thì cũng bao nhiêu người đi chơi đấy thôi... Nhưng nếu thật sự muốn hoài cổ thì mình đề nghị, Tết sang năm Đường hoa Nguyễn Huệ nên dựng lại cảnh Sài Gòn xưa với những di sản đã biến mất, bị biến đổi, phải đánh đổi cho các công trình mới xây dựng.

Mà trước hết, cần tái lập bùng binh Cây Liễu ở Nguyễn Huệ, bùng binh Chợ Bến Thành là hai cảnh quan độc đáo của Sài Gòn. Cam đoan nếu tái lập hai bùng binh và “phục dựng” những cảnh quan xưa thì sẽ rất đẹp để check-in, du khách biết thêm về lịch sử thành phố, và quan trọng là di sản văn hóa thì không “đụng hàng” với bất cứ nơi nào!
Lưu ý: bản quyền ý tưởng của mình đấy nhé! 🙂
Ngày 1.2.2025. Mùng 4 tết Ất Tỵ.
Thích
Bình luận
Sao chép
Chia sẻ

BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC

  Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...