Hậu Khảo cổ
Đi và tìm trong đất... thấy người :)
Di sản khảo cổ - đô thị TP. HCM
ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CHO XÂY DỰNG CÔNG VIÊN CÓ CÔNG TRÌNH TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN COVID-19
Ý kiến của mình tại cuộc tọa đàm ngày 6/11/2025 tại Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM
Biểu tượng phòng chống dịch COVID-19: Chuyên gia nói gì ?
Dạy sử thời hậu chiến: làm thế nào để trưởng thành từ bài học lịch sử?
Góc Nhìn Phát Triển | 04/11/2013 Nghiêm Hoa
http://dienngon.vn/Blog/Article/day-su-thoi-hau-chien-lam-the-nao-de-truong-thanh-tu-bai-hoc-lich-su
Chiến tranh, xung đột vũ trang và bạo lực là hoàn cảnh làm nảy sinh những vi phạm nhân quyền trắng trợn và tràn lan nhất. Di sản của một cuộc chiến cần được nhìn nhận như thế nào để đau thương không lặp lại và những vi phạm nhân quyền ở quy mô lớn như vậy không tái diễn? Với tư cách là một môn khoa học xã hội nhân văn, việc viết sách giáo khoa sử và dạy sử ở một xã hội hậu chiến cần được cân nhắc như thế nào từ góc độ nhân quyền?
“Việc dạy sử cần hướng đến thúc đẩy tư duy phê phán, học hỏi và tranh luận dựa trên lý tính, nhấn mạnh tính phức hợp của lịch sử, việc dạy sử cần làm nảy sinh cách tiếp cận mang tính so sánh và đa diện. Việc dạy sử không nên đặt ra mục đích đắp bồi chủ nghĩa yêu nước, tô đậm bản sắc dân tộc hay gò khuôn cho lớp trẻ, dù là theo lý tưởng chính thống hay một tôn giáo đang chiếm ưu thế”.
Đó là phát biểu của bà Farida Shaheed, Báo cáo viên Đặc biệt về các quyền con người trong lĩnh vực văn hóa trước Đại hội đồng Liên Hợp quốc về việc viết sách giáo khoa môn sử và dạy sử ở những xã hội thời kỳ hậu xung đột và hậu chiến. Nhân dịp bà Shaheed sẽ sang thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Nhà nước từ ngày 18 đến 29 tháng 11 năm 2013, bài viết này thảo luận một số vấn đề xung quanh tuyên bố trên đây.
Làm gì với vết thương hậu xung đột?
Điều gì sẽ xảy ra với con người cá nhân trong một cuộc xung đột? Cuộc xung đột, ở quy mô nhỏ, có thể là mối mâu thuẫn cá nhân với một người khác. Ở quy mô lớn, xung đột có thể là mâu thuẫn giữa hai hoặc nhiều tập hợp xã hội, hai tôn giáo, hai quốc gia. Dạng thấp nhất của một cuộc xung đột có thể là sự không dung hòa giữa hai cách suy nghĩ hoặc hành xử khác nhau. Dạng xung đột cao nhất với mức độ bạo lực cao nhất là chiến tranh. Ở bất kỳ cấp độ và quy mô nào, hậu quả trực tiếp của xung đột bạo lực với cá nhân hay với một nhóm, dù ở bên nào, là sự tổn thương mất mát.
Câu hỏi đặt ra với những thế hệ bước ra khỏi cuộc chiến là, từ những nỗi đau thương của mình, họ muốn để lại thông điệp gì cho thế hệ tiếp theo. Cách thức đối diện với vết thương hậu xung đột sẽ đè nặng và phá hủy nhân cách của một cá nhân hoặc một dân tộc, hay sẽ giúp một họ đứng lên mạnh mẽ như phượng hoàng bay lên từ tro tàn? Quan trọng hơn, phượng hoàng ấy sẽ khiến xung quanh kinh hoàng hay thán phục, sẽ giúp viết nên một trang chỉ lặp lại và kéo dài thêm nỗi đau, hay sẽ tiến bộ và nhân văn hơn? Người Đức mất đến hai lần thua cuộc đại chiến thế giới để tự học và khẳng định tư thế một nước lớn với những giá trị vững vàng. Người Nhật, từ bên thua cuộc trong Thế chiến thứ Hai, đã viết cho mình một chương lịch sử mới khiến thế giới kính nể.
Cách thức một cá nhân hay một dân tộc tự nhận thức về mình và nhận thức về thế giới xung quanh khi họ bước ra khỏi cuộc xung đột mang tính bạo lực, dù ở tư cách bên thắng cuộc hay bên thua cuộc, sẽ định hình vận mệnh tiếp theo của cá nhân hay dân tộc đó.
Trách nhiệm lịch sử của thế hệ sau là truyền bá sự thù địch hay xây đắp hòa bình?
Từ một trải nghiệm mất mát có thể sinh ra nhiều tâm lý khác nhau. Sự thù hận là một hệ quả mang tính bản năng của mất mát. Sự mất mát và tâm lý hơn thua chính là động lực nuôi dưỡng những mối thù được truyền kiếp trong lịch sử của một dòng tộc, một tôn giáo, một nhóm người hay một dân tộc. Điều đó chẳng khác gì việc giữ lại một hạt giống bạo lực chỉ chờ có dịp sẽ nảy mầm sinh sôi. Chỉ khi nào chúng ta không còn chất lên vai thế hệ sau gánh nặng thù địch kết quả từ một cuộc chiến, chúng ta mới có thể đoạn tuyệt khỏi thời kỳ tăm tối của lịch sử loài người mà kẻ thua trận và cả con cháu của họ sẽ phải làm nô lệ.
Thế hệ sau, dù thừa hưởng di sản là nỗi đau của một cuộc chiến, không cần và không đáng phải mang trên lưng mình ý thức cừu địch và nhiệm vụ trả thù. Romeo và Juliet không cần và không đáng phải đeo một mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ mà họ vốn chẳng trực tiếp liên quan. Tuổi trẻ và trường học là mảnh đất màu mỡ để gieo nhiều loại hạt giống khác nhau. Vì vậy cần chọn hạt giống của tư duy khoa học, lòng vị tha và tình bác ái thay vì hạt giống thù hận, chia rẽ và bạo lực. Sự thù hận không chỉ nảy sinh từ vết thương bạo lực của tất cả các bên xung đột. Tâm lý vẻ vang với chiến thắng cũng có thể làm nảy sinh thù hận.
Trong một cuộc chiến, người tham chiến cần được coi là chiến binh chuyên nghiệp mà vinh quang là của cả người thắng cuộc lẫn người ngã xuống. Bên thắng cuộc được hưởng vinh quang, nhưng vinh quang ấy không thể thiếu vẻ đẹp mã thượng thể hiện lòng tôn trọng với đối thủ thua cuộc. Bên thua cuộc cũng có vinh quang của họ bởi cái giá xương máu họ đã phải trả cho một cuộc chiến. Có nghĩa là khi cuộc chiến kết thúc, người ngã xuống thương vong hoặc bên thua cuộc cần được đối xử như những con người với đầy đủ phẩm giá của họ.
Không phải ngẫu nhiên mà ngày nay nhân loại công nhận đây là một nguyên tắc nền tảng của Luật Chiến tranh – hay các Công ước Geneva trong Luật Nhân đạo quốc tế. Nguyên tắc này giảm thiểu sự tàn bạo trong một hoàn cảnh tàn bạo nhất, và là một nỗ lực để không gieo những hạt mầm bạo lực. Việc dạy và học sử ở nhà trường cũng cần tôn trọng và thực hành nguyên tắc nhân bản này.
Môn sử cần giúp nhận thức trưởng thành cả về lý tính và nhân tính
Cả tâm lý thù hận do mất mát và tâm lý vẻ vang với chiến thắng đều che mờ khả năng lý tính để nhận thức sự việc một cách khách quan. Ngược lại, vận dụng lý tính và thúc đẩy việc nhận thức sự việc một cách khách quan, dựa trên các bằng chứng khoa học và việc soi sáng những bằng chứng ấy bằng tư duy độc lập và biện chứng cho phép chúng ta tiến gần hơn đến thực tế. Những diễn biến trong lịch sử và đặc biệt là trong một cuộc xung đột là vô cùng phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều bên khác nhau, nhiều luồng tư tưởng, nhiều lợi ích khác nhau, nhiều mối quan hệ quyền lực và cả những ý đồ chính trị khác nhau.
Mỗi chứng nhân của lịch sử có thể mô tả sự kiện họ đã liên đới theo cách nhìn khác nhau, xuất phát từ vai trò, quan điểm và ý thức hệ của họ, từ đó tạo ra một phiên bản lịch sử của họ. Bởi thế không có một phiên bản mô tả lịch sử nào có thể coi là trọn vẹn và duy nhất. Cũng như không có sự thực nào là hoàn hảo do nhận thức của con người là giới hạn, và do bản chất phức tạp của cả thực tại khách quan lẫn quan điểm và phẩm chất của con người.
Bởi thế, bản thân những mô tả về lịch sử cũng đa dạng, mà chúng ta chỉ có thể biết về một sự kiện một cách bao quát hơn bằng cách tập hợp nhiều góc nhìn, nhiều phiên bản, nhiều bằng chứng. Phủ nhận một góc nhìn khác cũng chính là phủ nhận một cơ hội tiến gần hơn đến sự thật. Chính vì thế, thúc đẩy những tranh luận dựa trên bằng chứng khoa học chứ không phải bản năng trả thù, chấp nhận tính phức hợp và đa nguyên của lịch sử chứ không phải những thông tin một chiều nặng tính tuyên truyền sẽ giúp chúng ta tiến gần hơn đến tri thức.
Môn sử trong nhà trường trước hết cần đóng vai trò là một môn khoa học giúp người học phát triển về khả năng tư duy để nhận thức về bản thân và thế giới, từ đó lựa chọn số mệnh của mình một cách ngôn khoan hơn. Môn học ấy cũng cần bồi đắp tinh thần nhân văn và sự khoan dung để giúp thế hệ sau xung đột biết cách tránh được xung đột và mất mát, thay vì biến họ thành những hạt giống mới của bạo lực, thành phương tiện truyền đạt hoặc công cụ xương máu cho các chủ nghĩa hoặc các ý thức hệ.
Với tư cách là một khoa học nhân văn, việc dạy và học môn sử ở xã hội hậu xung đột có vai trò phá vỡ vòng xoáy bạo lực để tránh sự lặp lại những vi phạm nhân quyền tràn lan trong chiến tranh: Ký ức và trải nghiệm được ghi nhận và truyền bá không phải là những thông điệp bạo lực, mà phải tạo điều kiện cho sự nhận diện bạo lực và thức tỉnh khỏi bạo lực. Những bài học lịch sử không nên truyền đạt sự thù hận địch – ta, bởi nó cần sự khách quan từ việc công nhận tính đa diện và đa nguyên của một cuộc xung đột.
Nhìn lại một cuộc chiến có những trận đánh được sắp đặt như thế nào là câu hỏi của khoa học quân sự. Những quan hệ quyền lực diễn biến ra sao trong xung đột như thế nào là câu hỏi của khoa học chính trị. Truyền đạt vẻ đẹp của sự hy sinh, lòng trung thành, tình yêu nước hay ghi tạc bản sắc dân tộc là thông điệp của thi ca và nghệ thuật. Còn lịch sử, như một ngành khoa học và người dạy sử như một người hướng dẫn phát triển tư duy cần làm nhiệm vụ khai sáng để giúp người học nhận thức rõ ràng hơn về thế giới trong quá khứ, và hướng đến một tương lai chung sống hòa bình.
Bài này mình copy về FB lâu rồi, link bây giờ cũ không truy cập được.
VÌ DÂN – ĐẠO CỦA NGƯỜI LÀM QUAN
Tôi vẫn thường qua lại con đường Lê Văn
Duyệt (TP. Hồ Chí Minh). Trên con đường này lúc nào cũng tấp nập người đi làm nơi công sở, người
buôn gánh bán bưng, công nhân tất bật đến công trình, trẻ em đến trường… Mỗi
khuôn mặt, mỗi dáng đi, mỗi âm thanh trong đời sống hôm nay đều là một khoảnh
khắc giản dị, mộc mạc, như từng diễn ra từ hàng trăm năm trước ở đây. Vùng đất
“cố cựu” này có công trình Lăng Ông quen thuộc, mỗi khi đi qua tôi luôn cảm thấy gần gũi mà linh
thiêng – bởi vì Lăng Ông là nơi thờ phụng một vị đại thần, nơi thể hiện tình
cảm bao đời của người Gia Định với vị đại quan có công lớn với vùng đất này,
với buổi đầu phát triển đô thị này.
Nam bộ là một vùng
đất mà phải trải qua bao đời, bao mồ hôi nước mắt của tiền nhân mới trở nên rộng lớn
và trù phú. Hàng trăm năm lịch sử với nhiều biến cố lớn lao, người dân nơi đây luôn
nhắc nhớ và kính trọng những ai thực sự vì dân. Người ta vẫn nói “Dân là gốc
của nước” nhưng không dễ dàng để thật sự hiểu điều đó. Làm quan hiểu dân là
khi biết nhận biết những mất mát đau thương của người dân sau cơn binh lửa
chiến tranh, lắng nghe tiếng thở dài người dân khi mùa màng thất bát, lúc thiên tai tàn phá, là nhận ra những mong muốn giản dị đời thường… Nếu không cảm, nhận, hiểu, biết tất cả từ một
trái tim cùng nhịp đập với muôn trái tim dân thì chưa thể hiểu “Dân là gốc của
nước”.
Người ta cũng nói “Quan
nhất thời dân vạn đại”, người làm quan mà hành xử từ việc nhỏ hàng ngày đến
công trình dời non lấp biển đều để cho dân được an cư lạc nghiệp, người đó sẽ được dân tin yêu cả khi đã “hết quan hoàn dân” - dân vạn đại còn là
nghĩa đó! An dân là kế sâu rễ bền gốc muôn đời, người làm quan thực hành theo kế ấy thì không chỉ một đời mà nhiều đời sau vẫn được
nhân dân truyền tụng.
Hơn hai trăm năm qua
Lăng Ông vẫn ở đó, chứng kiến mọi đổi thay của Sài Gòn và cả vùng Gia Định xưa.
Lăng Ông linh thiêng bởi người dân tin Đức Ông là vị đại quan thanh liêm chính trực, sống vì dân thì thác làm phúc thần phù hộ cho dân.
***
Giữa lúc mạng xã hội
nổi lên vài tiếng nói lạc lõng bất thường và bất kính về danh thần Lê Văn Duyệt
và những người cùng thời, thì một tin vui đến với người dân thành phố: Thường
trực Thành ủy TP. HCM vừa thống nhất chủ trương ưu tiên sử dụng khu đất Bến Nhà Rồng và khu
đất Nhà khách Chính phủ – hai khu đất “vàng” nhưng không sử dụng từ nhiều năm
nay – để xây dựng công viên và các công trình văn hóa – nghệ thuật phục vụ cộng
đồng.
Quyết định này là
một hướng đi mới, thể hiện tinh thần vì dân và tầm nhìn phát triển đô thị bền
vững của TP. HCM. Bao nhiêu năm
nay những “khu đất vàng” từ trung tâm thành phố đến các cơ sở công nghiệp cũ,
bến cảng ven sông đều trở thành những toà nhà cao tầng “hiện đại”. Thành phố
rộng ra, cao lên nhưng chen chúc chật chội hơn, khói bụi ô nhiễm, kẹt xe ngập
nước cũng nhiều hơn. Đường Nguyễn Tất Thành ven bến Khánh Hội là một trong
những con đường “khủng khiếp” với những ai phải qua lại hàng ngày. Từ khi khu vực cảng ở đây được giải
toả, hàng chục ngàn met vuông bị bỏ không trong khi con đường bên cạnh mỗi ngày
hàng chục ngàn lượt người qua lại phải nhích dần từng bước.
Đón nhận chủ trương
mới của thành phố, những người dân đã quen chỉ nhìn thấy “hình bóng” mình phản chiếu
qua những lớp kính của cao ốc chung cư mọc lên như nấm, che khuất dòng sông che
kín khoảng trời, bỗng nhận ra “vị trí trung tâm” của mình trong một quyết định hợp lòng người, nhận ra đôi chân của mình có thể được đứng trên những “khu đất kim
cương”!
Khu vực cảng Sài Gòn sẽ dùng để mở rộng con đường,
làm công viên bờ sông, nối liền di tích Bến Nhà Rồng lịch sử - một biểu tượng
của thành phố. Nơi đây sẽ tổ chức những hoạt động văn hoá hiện đại mang tầm quốc tế, thể hiện trình
độ và nguồn lực công nghiệp văn hoá của thành phố. Sẽ mang lại cho thế hệ trẻ và du khách cảm nhận về một thành phố không chỉ hiện đại mà còn có chiều sâu lịch sử và bề dày di
sản.
Một khu đất khác bị bỏ hoang hàng chục năm nay sẽ trở
thành một công viên. Đây là địa bàn đông dân cư, có vị trí thuận tiện về giao
thông để người dân dễ dàng lui tới. Tại đó những căn biệt thự đã lâu không được
sử dụng có thể sẽ trở thành các gallery, showroom trưng bày, trình diễn nghệ
thuật, có công trình tưởng niệm người dân mất vì COVID-19 và bảo tàng để nhắc nhớ người ta
nhớ về trận đại dịch kinh hoàng mà thành phố đã dũng cảm chịu đựng và vượt qua.
Một mảng xanh hiếm hoi được “bảo tồn” sau quá nhiều mất mát cây xanh, công viên
trên địa bàn thành phố.
TP. Hồ Chí Minh đang thay đổi ngày càng “vì con
người”. Thành phố cần những công trình hiện đại nhưng cần hơn là sự đồng cảm
giữa chính quyền và người dân khi cùng chung ý chí và hành động vì một cuộc
sống ngày càng tốt đẹp. Tình cảm gắn bó của những con người đang góp sức lực
xây dựng thành phố là tài sản quý giá nhất trong hành trình phát triển đến
tương lai.
***
“Vì dân” không phải là khẩu hiệu mà cần được thể
hiện từ những điều giản dị và cụ thể. Hiểu dân – gần dân – vì dân là đạo của “người làm quan”. Người
dân mình luôn nhận biết và không bao giờ quên những người “vì dân”, từ một lời
nói chân thành, một nghĩa cử nhỏ đến những công trình lớn lao. Một khi dân đã
tin thì chẳng cần lời tuyên thệ nào, sự ủng hộ ấy tự nhiên như dòng nước từ
nguồn, nuôi cả cây đời và cội nước. “Thương dân dân cúng dân thờ” cũng
là “đạo làm dân” mà con dân vùng đất phía Nam đã thực hành từ nhiều đời nay...
Nếu mỗi bước đi về phía trước thành phố đều giữ được
không gian xanh và cảnh quan sông nước, bồi đắp thêm ký ức đô thị, thì thành
phố sẽ giữ gìn được bản sắc riêng: năng động, bao dung và đầy tình người. Thời
gian trôi qua, những gì được dân lưu truyền chính là những giá trị nhân văn mà
bất cứ thời thế nào cũng không thể làm thay đổi!
Nguyễn Thị Hậu - NGƯỜI ĐÔ tHỊ SỐ RA NGÀY 30/10/2025
Lăng Ông (Bà Chiểu) 31.10.2025
Thỉnh thoảng trên đường đi làm ghé qua thắp nhang. Một không gian yên tĩnh, sạch sẽ, tôn nghiêm mà gần gũi thân thiện. Ngày thường nhưng ở đây lúc nào cũng có người đến viếng.
BẢN SẮC ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ (trích phần đầu và cuối của một bài dài)
Nguyễn thị Hậu
Di sản khảo cổ - đô thị TP. HCM
TP. Hồ Chí Minh – đô thị năng động bậc nhất Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội v...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...