Hậu Khảo cổ
Đi và tìm trong đất... thấy người :)
QUÁN KỲ NAM - MỘT SÀI GÒN BAO GIỜ CŨNG THẾ!
TỪ NGÀY MẸ CHO…
TP. HỒ CHÍ MINH - ĐỊNH MỆNH BÊN MỘT DÒNG SÔNG
https://nguoidothi.net.vn/tp-hcm-dinh-menh-ben-mot-dong-song-50827.html
Nguyễn Thị Hậu
TP. Hồ Chí Minh hiện nay (gồm TP.HCM, tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu cũ) luôn là khu vực giữ vai trò trung tâm kinh tế phía
Nam. Để tiếp tực giữ vững và phát huy vai trò “đầu tàu
kinh tế” của cả nước, thành phố đang đứng trước nhu cầu cấp bách định hình một mô hình không gian phát triển mới. Trong bối cảnh đó, tái cấu trúc và định hình TP. Hồ Chí Minh theo hướng “vùng đô thị sông nước” (River-based Urban Region) là nhu cầu mang tính thực tiễn cao. “Tính chất sông nước” ở đây không chỉ là nguồn lực tự nhiên về nguồn nước, sinh thái và giao thông, mà còn là đặc trưng văn hóa – lịch sử từ thời kỳ khởi lập đến nay.
TP. Hồ Chí Minh nhìn từ cấu trúc
sông nước
TP. Hồ Chí Minh hiện nay là một vùng rộng lớn trung tâm miền Đông
Nam Bộ. Ba hệ thống sông
chính tạo nên xương sống sinh thái – văn hóa - kinh tế – giao thông của vùng là Sông Sài Gòn - có vai trò lịch sử đặc biệt trong quá trình hình thành vùng đất Gia Định và đô thị Sài Gòn. Sông Đồng Nai - kết nối các tỉnh Tây Nguyên với
vùng hạ lưu Đồng Nai, Bình Dương và TP. HCM. Và Sông Thị Vải – Sông
Lòng Tàu – Soài Rạp - tạo thành hành lang chiến lược kết nối từ TP. HCM ra biển qua Cần Giờ – Bà Rịa –
Vũng Tàu. Các con sông lớn
trên địa bàn thành phố đều đổ ra biển Đông, vì vậy “mặt tiền” của vùng Đông Nam
bộ hiện nay thuộc về TP Hồ Chí Minh. Ngoài khơi, từ xa xưa Côn Đảo luôn thuộc
sự quản lý của thành Gia Định, có thể coi Côn Đảo là “tiền cảng” của cảng Bến
Nghé – Gia Định.
Cấu trúc sông nước
không chỉ quy định điều kiện tự nhiên mà còn ảnh hưởng đến tổ chức không gian
đô thị, phân bố dân cư, hệ thống bến cảng và vùng đệm sinh thái. Từ vị trí địa lý “trời cho” nhưng được “người chọn” đã tạo nên TP. Hồ Chí Minh (trước kia và hiện nay) là một thành phố sông nước, hướng biển và kết nối.
Bắt đầu từ thời tiền sử vùng hạ lưu sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn là trung tâm nền văn hóa cổ “văn hóa Đồng Nai”. Từ cuối thế kỷ 17
và trong suốt thế kỷ 18, lưu vực hai con sông Sài Gòn, Đồng Nai tiếp nhận những
đoàn lưu dân người Việt, người Hoa vào khai phá. Bản thân sự “khai sinh” vùng Gia Định
đã là quá trình tập hợp những cộng đồng từ nhiều nguồn gốc, nhiều vùng miền
trong và ngoài nước, hòa nhập với các tộc người đã tụ cư lâu đời ở vùng đất
này.
Các con sông
của thành phố gắn với quá trình định cư và phát triển của người Việt, Hoa và
nhiều cộng đồng khác ở miền Đông Nam Bộ. Cùng với quá trình khẩn hoang lập ấp,
phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp… lưu dân vào
vùng đất Gia Định đã mang theo những phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo,
lối sống nếp sống... của quê hương bản quán làm chỗ dựa tinh thần ở vùng đất
mới. Trên địa bàn thành phố tồn tại một hệ thống di sản văn hóa đô thị sông
nước.
Nhiều ngôi đình, chùa, miếu thường quay mặt hướng ra sông, rạch, các địa
danh “Miếu Nổi” có từ một miếu nhỏ dựng trên các cù lao giữa sông... Điều này
cho biết các làng xóm xưa “quy hoạch” ven sông, kinh rạch, lấy sông là “xương
sống”, kinh rạch lớn nhỏ là hệ thống “mạch máu” tạo nên sinh khí một vùng đất. Nhiều đình làng trước đây tổ chức Lễ hội rước sắc
thần bằng ghe - nét đặc sắc của cư dân ven sông ở Nam bộ. Vùng biển Cần Giờ,
Vũng Tàu, Bà Rịa có Lễ Nghinh Ông và tục Thờ Cá Ông.
Nghề gốm truyền thống ở xóm Lò Gốm Sài Gòn xưa còn địa danh Kinh Lò Gốm,
rạch Lò Gốm (quận 6, quận 8), khu Lò Lu phường Long Trường cũ (TP Thủ Đức) liền
kề sông Trao Trảo – Rạch Chiếc. Làng gốm Lái Thiêu ven sông Sài Gòn... phát
triển nhờ thuận lợi đường thủy.
Nhiều ngôi chợ xưa hình thành ngay tại bến sông/rạch
lớn như chợ Bến Thành xưa, chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Lớn gần Kinh Tàu
Hũ, chợ Tân Định, chợ Lê Văn Sĩ gần kinh Nhiêu Lộc, chợ Thị Nghè, hay chợ Thủ
Dầu Một kế sông Sài Gòn... Cũng là cảnh quan “trên bến dưới thuyền” của Nam bộ
nhưng ở các đô thị lớn như Sài Gòn (và Đông Nam bộ) thì “trên bến” có vai trò chủ đạo, vì tại đó hình
thành những chợ đầu mối, rồi các cơ sở dịch vụ, công nghiệp, sau này là các bến
cảng lớn xuất nhập nông sản, hàng hóa. Trước đây còn nhiều khu cư trú ven kinh rạch, là nhà sàn hoặc một
phần nhà sàn. Tuy nhiên do không có điều kiện đảm bảo vệ sinh môi trường, nên
nhiều khu vực đã được giải tỏa và ngày càng có xu hướng xóa bỏ lối cư trú này
trong đô thị.
Vị thế Địa – Văn hóa mang lại cho TP. Hồ Chí Minh hiện
nay một lợi thế quan trọng trong quá trình sáp nhập: đó là một truyền thống lịch
sử chung, bản sắc văn hóa đa dạng thể hiện qua hệ thống di sản phong phú của một
vùng văn hóa sông nước – hướng biển độc đáo.
Các vấn đề đặt ra
Như vậy có thể thấy rằng, TP. Hồ Chí Minh – đô thị
lớn nhất Việt Nam hiện nay – được định hình và phát triển dựa trên đặc điểm Tự
nhiên – Văn hóa sông nước. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa từ giữa thế kỷ 20 đã
“bỏ quên” yếu tố sông nước trong quy hoạch phát triển giao thông và hình thái cư trú của
cộng đồng. Gần đây TP. Hồ Chí Minh đã quan tâm đến yếu tố sông rạch trong cấu
trúc đô thị, bắt đầu từ mạng lưới giao thông đường thủy và tiềm năng phát
triển du lịch đường sông vì tính kết nối cao của sông rạch. Hệ thống thủy lộ
chính là tuyến du lịch xuyên không gian văn hóa – thời gian lịch sử của thành
phố và Nam bộ.
Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ gây ra tình trạng đứt gãy các hành lang, giao thông sông nước do bê tông hóa, san lấp kinh rạch. Số lượng và mật độ dân cư, cơ sở sản xuất dày đặc
gây ô nhiễm trầm trọng, suy giảm chất lượng sinh thái vùng ven kinh rạch, ven sông, ven biển.
Khi còn là những đơn vị hành chánh khác nhau thì thiếu phối hợp liên vùng trong quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch
theo lưu vực sông. Thành phố và vùng ven mất dần bản sắc văn hóa sông nước, nhất là lối cư trú ven và trên sông rạch. Đặc biệt, khi các đô thị phát triển
nhờ hệ thống đường bộ thì cũng nhanh chóng “mất gốc” vì xa rời, cắt khỏi môi
trường cảnh quan sông nước tự nhiên vốn có – yếu tố khởi đầu và phát triển đô thị.
Tất cả điều đó làm mất đi không chỉ cảnh quan sông
nước mà còn cắt đứt ký ức đô thị sông nước trong cộng đồng: đường thủy không
còn vai trò, chợ ven sông biến mất, hệ thống văn hóa tín ngưỡng ven sông mờ
nhạt, hình thái cư trú nhà sàn truyền thống bị phá bỏ... Tất cả là một hệ thống “di sản” sẽ biến
thành “tài nguyên du lịch” nếu biết bảo tồn và phát triển đúng hướng, đúng
cách. Đô thị trở nên lệ thuộc hạ tầng
đường bộ, dễ bị ngập úng, mất bản sắc. Đặc biệt góp phần tác động tiêu cực vào “biến đổi khí
hậu” khi mà diện tích mặt nước giảm, đi cùng với diện tích mảng xanh ven bờ
cũng giảm, tăng thêm nhiều diện tích bê tông hóa và hiệu ứng nhà kính tại những
khu chung cư cao tầng ven sông đang được xây dựng ngày càng nhiều.
Bảo tồn bản sắc văn
hóa
TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện một phần tích hợp này
bằng một số chương trình tái thiết không gian sông nước trong chiến lược phát
triển đô thị hiện đại. Vài năm gần đây thành phố đã thực hiện dự án “hồi sinh
bến Bạch Đằng” nhắc nhớ ký ức một thời “dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa
phai” quen thuộc của người Sài Gòn. Mở ra hướng phát triển “TP.HCM – thành phố
bên sông” bằng các dự án giao thông dọc sông Sài Gòn.
Dự án cải tạo bán đảo Thanh Đa theo định hướng bảo
toàn cảnh quan tự nhiên gồm các giải pháp quy hoạch tổng thể, hài hòa giữa phát
triển đô thị hiện đại và bảo tồn thiên nhiên, trong đó chú trọng đến hệ thống
thủy lợi tự nhiên, khả năng thoát nước, không gian công cộng và hệ sinh thái
bền vững.
Các chương trình cải tạo kênh rạch (Tàu Hũ – Nhiêu
Lộc – Thị Nghè), di dời dân cư, mở lối đi ven kênh, trồng cây xanh, nạo vét
kênh rạch... Mở ra không gian cộng cộng mới, hình thành ký ức đô thị mới. Tất
cả những dự án đã và sắp triển khai luôn cần đặc biệt chú ý ba yếu tố quan
trọng, quyết định hiệu quả lâu dài của dự án và chất lượng đời sống cộng đồng. Đó
là tái định cư, bảo toàn di sản văn hóa sông nước và thích ứng biến đổi khí hậu.
Đây cũng là ba yếu tố đảm bảo cho thành phố phát triển bền vững.
Định hướng quy hoạch các “hành lang đô thị ven sông”
(urban river corridors) kết hợp giao thông – công viên – di sản – dịch vụ công
cộng. Phát triển “hành lang” này
đầu tiên là thiết lập hệ thống công viên ven sông, bảo tồn hành lang sinh thái. Tăng cường giao thông công cộng đường thủy. Trên cơ sở đó khôi phục bản sắc văn
hóa đô thị sông nước như bến và chợ ven sông, làng nghề bên sông, lễ hội truyền thống, bảo tồn và trùng tu, phục dựng những di tích tín
ngưỡng dân gian, tạo thành tuyến điểm du lịch. Phát triển công nghiệp văn hóa từ tài
nguyên di sản, như chương trình biểu diễn thực cảnh “Lễ Hội sông nước” đã tổ chức ở TP. Hồ Chí Minh.
TP. Hồ Chí Minh có vị thế địa – văn hóa, địa – kinh tế gắn
liền với các dòng sông. Không chỉ vậy, hiện nay TP. Hồ Chí Minh còn giữ toàn bộ
“mặt tiền” hướng biển của cả miền Đông Nam bộ. Đây là một lợi thế to lớn của
thành phố.
Sông
nước không chỉ là yếu tố tự nhiên, mà còn là nền tảng lịch sử - văn hóa – ký ức – bản sắc
của TP. Hồ Chí Minh. Vì vậy cần phục hồi và tái cấu trúc các trục
sông như hệ trục không gian chiến lược, gắn quy hoạch – di sản – cộng đồng, làm nền tảng cho phát triển đô thị hiện đại - bền vững – bản sắc.
TP. Hồ Chí Minh, ngày
2.10.2025
HIỂU VỀ NHỮNG DÒNG SÔNG
Nguyễn Thị Hậu - Tạp chí VĂN HÓA XỨ QUẢNG 11/2025
Những ngày mưa lũ vừa qua, nhìn những con
đường, cánh đồng, thành phố đang ngập dần trong cơn nước dâng nhanh, nhìn những con
sông nước ngầu đỏ cuộn
qua, tôi chợt nhận ra hình như chúng ta chưa bao giờ thực sự hiểu một dòng
sông. Ta chỉ nhớ đến nó khi lũ về, khi những cánh đồng biến
thành “biển hồ”, khi những con đường thành dòng sông, khi những ngôi nhà bất
lực trước dòng nước đổ vào ào ạt... Còn những ngày bình thường, dòng sông quen thuộc ngàn
đời như ngủ yên bên xóm làng, bên thành phố trong sự “quên lãng” của con người, cho đến khi cơn lũ đổ về
làm nó “thức dậy”.
Và cứ sau những
cơn bão lớn, sau mỗi mùa lũ lụt con người lại giật mình nhớ ra rằng, dòng sông không hề đơn
giản! Nó là ký ức của cả cộng đồng, là ranh giới của mỗi thế hệ, là một phần di sản âm thầm tồn tại trong nếp nghĩ lối sống, trong câu chuyện của bao thế hệ tiền nhân đã theo dòng phù sa mà dựng làng, lập phố. Ông bà mình vẫn nói “Sông không bao giờ chỉ là sông. Nó là
cái cách người ta đối xử với nhau”. Xóm làng xưa nay vẫn thế, mỗi khi lũ về, người mạnh đỡ người
yếu, người trên kéo người dưới, mở cửa cho nhau tạm trú. Cả xóm có thể nghèo
nhưng nghĩa tình luôn giàu có. Đó cũng là một loại di sản cộng đồng.
Qua ngàn đời dòng sông vẫn chảy, nhưng từ đầu nguồn xuống đôi bờ sông đã khác! Rừng trên ngàn không còn nữa, những cơn mưa trút
xuống không còn cây rừng che chắn, nước cứ thế trút thẳng ra suối, suối đổ ra
sông cuốn theo bao thân cây bị đốn chặt, bao đất đá trơ ra trên đồi trên núi.
Dòng sông bên lở làm biến mất đồng lúa ruộng ngô, bên bồi lại mọc lên những khu
nhà cao tầng bê tông kín mít. Những con đò cũ biến mất, bến nước thành đường xá, kênh rạch bị san lấp... Lũ mỗi năm lại dữ dội hơn như để nhắc rằng, việc lấn dòng lấp sông là xóa đi khả năng tự điều hòa của dòng sông trong mỗi mùa bão
lũ, cũng là xóa đi những kinh nghiệm thích ứng mà cha ông đã tích lũy qua nhiều thế hệ.
***
Nhiều lúc tôi tự hỏi: di sản văn hóa của một
dòng sông là gì? Là những ngôi miếu ven sông thờ thủy thần hà bá? Là bến thuyền từng
đưa người dân qua lại đôi bờ? Là nơi tụ tập ghe bạn hàng mà thành chợ nổi? Hay là những xóm vạn đò sống lênh đênh trên sông nước? Hay chỉ còn ký ức về những “cánh buồm nâu, cánh buồm nâu,
cánh buồm...” trôi dọc theo những con sông dài khắp đất nước?
Có lẽ là tất cả. Và có lẽ còn nhiều hơn thế. Bởi di sản của các dòng sông nằm ở mỗi vùng miền, trong ký ức mỗi con
người. Dòng sông hiền hòa nặng phù sa mang theo một hệ thống di sản không
được “ghi trong hồ sơ” mà tồn tại trong đời sống: nghề chài lưới, trồng dâu nuôi
tằm, những lò gốm ven sông, tập quán cư trú trên nhà sàn, nếp cư xử hào sảng của cư dân vùng sông nước... Khi sông không còn hiền hòa, khi đôi bờ không còn là nơi trú ngụ bình an cho
con người, thì dòng sông sẽ không còn linh hồn, con người sẽ không còn ký ức.
Lũ lụt năm nay mang lại quá nhiều bất an. Ở tầm
vĩ mô của quốc gia là sự biến đổi khí hậu và hiện tượng thời tiết cực đoan hiện
lên rõ ràng, cụ thể! Ở đời sống hàng ngày là nước lũ ngày càng cao ngày càng càng
bất thường... Nhưng sự bất an chính là cơ hội để con người nghiêm khắc nhìn lại cái cách chúng ta ứng xử với thiên nhiên: chúng ta đã làm gì
hàng trăm ngàn hecta rừng nguyên sinh đầu nguồn? Chúng ta đã quy hoạch và ứng xử với sông như thế nào, từ hệ thống thủy điện đến những chi lưu phụ lưu?
Từ xa xưa con người ở đâu cũng có “cẩm nang” sống chung với nước, kể cả sống chung với lũ. Đó là không
tàn phá rừng nguyên sinh mà khai thác “ăn rừng” vừa đủ; là những ngôi nhà sàn từ miền núi đến
đồng bằng, một lối cư trú văn minh vì thích hợp với thiên nhiên chứ không hề
“hoang sơ, lạc hậu” như nhiều người hiện nay lầm tưởng! Là hai bên bờ sông luôn
có vùng trũng cho nước tạm tràn vào mà không gây tai họa trực tiếp cho con người, để con người có thời gian
đối phó, là quy hoạch đô thị cần “nương theo sông” mà phát triển nhưng cũng cần
để khoảng không gian
cho “sông thở”, đừng “bức tử” những dòng sông trong thành phố bằng nhà cao tầng bằng kè
bờ thu hẹp lòng sông... Đó cũng là di sản tri thức đang bị “quên lãng” hay cố tình bỏ qua vì lợi ích
trước mắt, vì sự tham lam của con người trong đời sống hiện nay.
Không chỉ gây ra
hậu quả nặng nề cho đời sống mỗi con người, mỗi gia đình, những cơn lũ lụt
khủng khiếp vừa qua chắc chắn còn để lại một di hại lâu dài và rất khó khăn để
khắc phục. Đó là biết bao nhiêu công trình di sản bị ảnh hưởng nặng nề do bị
nước lũ. Tuổi công trình đã cao, nguyên vật liệu đã xuống cấp, mỗi cơn lũ lụt
là một trận “ốm nặng” của di sản, năm nào cũng vậy thì di sản ngày càng bệnh nặng
hơn, dù có cấp cứu kịp thời thì tuổi thọ sẽ giảm đi đáng kể, thậm chí di sản có
thể bị bức tử ngay trong mưa lũ. Vài ba thế hệ nữa liệu các công trình di sản
đó có còn hiện diện cho con cháu chiêm ngưỡng và tự hào?
Và vì thế, mỗi cơn lũ đi qua đều để lại một lời nhắc: đừng quay
lưng với dòng sông nhưng cũng đừng “uốn nó” theo tính toán của chúng
ta! Không chỉ vì nó là
mạch sống, là sinh thái môi trường, mà vì nó còn là phần ký ức tập thể, là “giáo trình” của cha ông về cách cư xử với
thiên nhiên. Khi ta phá bỏ hoặc lãng quên những lớp ký ức đó, ta cũng đánh mất
khả năng sống an toàn cùng sông nước.
***
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, ở một đất nước mà các dòng sông luôn là dấu ấn mỗi
vùng miền, nếu muốn tìm bản sắc
cho thành phố hãy bắt đầu từ dòng sông. Hãy
mở ra dòng chảy, khôi phục những bến
nước thành không gian công
cộng, bảo tồn những kiến trúc gắn với lối sống sông nước và lịch sử thương cảng, hãy lưu giữ và khôi phục những câu chuyện của cư dân ven sông. Bởi bản sắc không phải là thứ “tạo mới”
mà là thứ được gợi nhớ, được tái kết nối. Và có lẽ, di sản lớn nhất của dòng sông chính là dạy chúng ta cách tiếp
nhận và lưu giữ ký ức của những thế hệ đã sống cùng nước
từ thuở dựng làng lập phố.
Dòng sông đi qua mùa lũ cũng giống như chúng ta đi qua biến cố: dữ dội, mất mát, vượt qua rồi lại tiếp tục hành trình. Bão lũ mang lại mất mát đau thương nhưng nó luôn làm con người phải nhận thức lại chính mình, không chỉ là mỗi gia đình, mỗi cộng đồng mà còn là cả quốc gia! Nếu không học được điều gì đó từ những tổn thất thì chính chúng ta đang lại đi trên con đường dẫn đến những mất mát và tổn thất lớn hơn!
Tháng 11.2025
MỘT THỜI CỦA NHỮNG TIẾC NUỐI ĐẸP...
Lâu rồi không đi
xem phim “mời” vì thường những buổi đó rất đông, nhiều người quen, đôi khi
không khí ấy khó làm cho mình có cảm xúc trọn vẹn. Những phim hay thường đi xem
sau, khi dư luận lắng xuống.... để tự mình thưởng thức và ngẫm ngợi... Riêng
tối qua, tình cảm với Song Lang, với Gánh cải lương Thiên Lý... cũng đủ để kéo
mình đến với Quán Kỳ Nam ngay trong buổi chiếu “họp báo. Cảm xúc được lưu giữ từ
Song Lang giờ lại trở về, ngày càng trọn vẹn!
Ngay những thước
phim đầu đã cho mình bước vào một không gian ký ức quen thuộc,như trở về độ tuổi
thiếu phụ nhiều năm về trước: chút gì xao xuyến và tiếc nuối, một thời khó quên
vì những vất vả khó nhọc, vì những gì đã bỏ lỡ, bỏ qua
Một khu chung cư
cũ với những hỉ nộ ái ố vừa đủ để thấy một Sài Gòn nhẹ nhàng, nhân hậu và lạc
quan. Tại đó, Quán Kỳ Nam trong một căn nhà giữa những hàng xóm nhiều nguồn
gốc: người cố cựu kẻ mới nhập cư, người mất mát kẻ cũng chẳng được gì... tất cả
đều lo làm ăn, đều quan tâm đến hàng xóm bằng những cách khác nhau, tất nhiên
không thể thiếu sự tò mò thậm chí tọc mạch... Nhưng tất cả vẫn là một bức tranh
mà chủ đạo là gam màu trầm lắng. Câu chuyện trong Quán Kỳ Nam không phải một bi kịch mà là nỗi buồn dịu dàng, giống như khi ta bắt gặp làn khói thuốc lá quen thuộc thoáng qua ngoài khung cửa, một
hương cà phê lan nhẹ trên vỉa hè Sài Gòn, một điều gì cảm động nhói lên khi
nhìn thấy bức tường quét vôi màu vàng ký ức... Tất cả làm mình chợt nhớ về một
thời nào đó, có lúc đã rất cần một nơi để cảm xúc được trào ra, một không gian giản dị mà ấm áp, một
người bạn thấu hiểu mà không cần nhiều lời...
Phim đã chạm vào phần “đời” rất thật của con
người. Những câu chuyện trong quán không kịch tính, ta như nhận ra mình hoặc người thân quen nào
đó trong mỗi nhân vật, mỗi người mỗi gia đình đều có “vấn đề” của mình: những vết thương, niềm tiếc nuối, sự
cô độc không thể chia sẻ cùng ai... Nhưng trên tất cả
là ai cũng nghĩ về cách họ đối xử với chính vấn đề của mình, và với “vấn đề” của người hàng xóm.... Qua đó, dù
người già hay trẻ đều “trưởng thành” hơn trong tình người.
Những cảnh trong
phim mang lại không khí nghệ thuật mà vẫn gần gũi, như một lát cắt của văn chương đô thị: tiếng mưa rơi
ngoài hiên, bóng người đi ngược sáng, tiếng muỗng khuấy ly cà phê tan chảy vào
im lặng, cả tiếng rao mua đồ cũ... Mỗi chi tiết như một gợi ý về ký ức một Sài Gòn chưa xa những đã giữ những câu chuyện cuộc đời không ai biết. Một con hẻm cũ, một bóng người cô đơn trong đêm, một ánh mắt ngập ngừng, một lời chưa kịp nói, hay chỉ là một buổi chiều ngồi trên sân thượng nhìn bầu trời để thấy lòng mình nhẹ đi một chút.
Một chút tiếc nuối kiểu Sài Gòn xưa qua khung cảnh, âm nhạc,
cách kể chuyện gợi lại chất “đô thị ký ức” – thứ mà giờ đây
nhiều người quan tâm và
hay nói đến (nhưng không vì chính ký ức mà vì cái khác). Ký ức và cảm xúc về những gì đã
qua thường bất chợt
đến trong một chiều mưa, trên một bức tường vàng, nghe một giọng hát xưa... rồi đọng lại trong tim
mình, rất lâu... Quán
Kỳ Nam đánh thức
đúng phần mơ hồ ấy trong mỗi người.
Những ký ức ấy
khi chạm vào không còn nguyên
vẹn, từng tiếc nuối không thể gọi
tên.… nhưng chính sự lẫn lộn đó mới là cảm xúc thật của con người. Nỗi tiếc nuối đẹp không phải thứ làm mình đau, mà là một lời nhắc rằng mình đã sống
chân thành trong một thời điểm nào đó. Bộ phim đã mang lại cho người xem một điều, rằng mỗi
người đều có một “quán Kỳ Nam” riêng trong ký ức.
SG 24.11.25
QUÁN KỲ NAM - MỘT SÀI GÒN BAO GIỜ CŨNG THẾ!
Ngay những thước phim đầu đã cho mình bước vào một không gian ký ức quen thuộc,như trở về độ tuổi thiếu phụ nhiều năm về trước: chút gì xao ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...


