ĐẠI KHÁI NÓI CHUNG LÀ TƯƠNG ĐỐI

Không khó để đọc hoặc nghe thấy lời đánh giá, nhận xét bằng những từ này. Nó phổ biến đến mức ghép các từ lại cũng thành một câu như “trạng từ” chỉ tình trạng hay tính chất của sự việc, hành động, thậm chí là tính cách của một con người. Thử tìm hiểu thì biết một số nghĩa như:

ĐẠI KHÁI: chỉ trên những nét lớn, nét khái quát, không đi sâu vào chi tiết, cụ thể.
biết đại khái, đại khái câu chuyện chỉ có thế.
Là lối làm việc chỉ chú ý những cái chung chung, thiếu đi sâu vào những cái cụ thể
làm đại khái thôi!
Đồng nghĩa: đại loại, đại thể, phiên phiến
Khẩu ngữ: qua loa đại khái
NÓI CHUNG: nói một cách bao quát, không tính đến cái có tính chất cá biệt, bộ phận: tình hình nói chung là tốt; công việc nói chung có tiến triển…
Đồng nghĩa: nhìn chung
TƯƠNG ĐỐI: ở một mức nào đó, trong quan hệ so sánh với những cái khác cùng loại: kết quả tương đối tốt, kinh tế tương đối phát triển…có nghĩa ở mức đại khái trên trung bình, có thể tạm hài lòng: hình thức trông cũng tương đối…
Đại khái, nói chung, tương đối không mang tính định lượng mà là định tính bởi không cụ thể, cảm quan, lưng chừng, không khẳng định… kiểu nhận xét NÓI CHUNG như vậy không làm mất lòng ai, dễ làm vừa lòng người nghe dù có thể hiểu là không khen, đồng thời khi đánh giá TƯƠNG ĐỐI thì nhận xét đó có thể là ĐẠI KHÁI, như vậy người ta có thể dễ lẩn tránh trách nhiệm của mình.
Vì sao người ta thường bằng lòng với kiểu đánh giá này, cả từ hai phía?
Cứ theo sự giải nghĩa những từ ngữ này thì cần nhìn từ hai phía.
Hoặc bản thân sự việc hiện tượng đã thể hiện sự qua loa, không cụ thể, không đạt một chuẩn mực nào cả, không có kết quả như lẽ ra nó phải đạt.
Hoặc là thể hiện thái độ của người nhận xét một cách qua loa đại khái vì không hiểu biết cụ thể, sự hai mặt của nhận xét khi không khẳng định khen, chê, phê phán hay khuyến khích, muốn hiểu thế nào cũng được.
Nhưng cả hai bên đều bằng lòng với sự mù mờ không rõ ràng, thậm chí là giả dối.
Tất nhiên, bản thân những từ này không mang nghĩa tiêu cực hay tích cực, vì vẫn có những hiện tượng sự việc có tính chất mức độ như vậy. Nhưng khi nó phổ biến và được coi là “cần thiết” của sự đánh giá thì nhận xét không còn khách quan. Có thể thấy nguyên nhân xuất phát từ sự vô trách nhiệm. Nhân cách con người xã hội luôn gắn liền với trách nhiệm đối với chính mình và với cộng đồng. Người ta thường lo mất uy tín nhưng không coi trọng tinh thần trách nhiệm.
Có thể nhìn thấy vô số những ví dụ từ đời thường đến “chính sự” được đánh giá, nhận xét như vậy, cả bằng lời nói và văn bản, cho thấy tính đại khái, sự nửa vời và giả dối đã trở thành phổ biến trong xã hội. Bởi vì sự nửa vời dễ làm người ta hài lòng với những cái gì mình có, tự biện minh cho những yếu kém và ngại thay đổi, do đó người ta dễ dàng thỏa hiệp để có sự “ổn định”. Nhưng cứ mãi “ổn định” thì sẽ là trì trệ, lạc hậu.
Cũng như vận hành máy móc. Khi nhìn thấy những dấu hiệu trục trặc đầu tiên, hư hỏng nhẹ, đáng lẽ phải tìm ngay cách thức khắc phục thì nhiều người tự nhủ, máy vẫn chạy được, không sao, rồi đâu vào đấy. Đến khi dấu hiệu mang tính nguy cơ cũng chưa vội tìm hiểu hỏng cái gì và khắc phục như thế nào, mà lại đi tìm “đứa nào làm hỏng” vì cho rằng nhất định phải có một ai đó phá hoại thì máy mới hỏng; không nghĩ rằng, sự vận hành sai và không bảo trì máy thường xuyên chính là nguyên nhân đầu tiên. Tức là luôn đi tìm nguyên nhân khách quan mà ít khi tìm nguyên nhân từ phía chủ quan. Nếu có cũng là những nguyên nhân không thể quy trách nhiệm cụ thể cho ai!
Tiếc rằng, khi chưa tìm được cái đứa làm hỏng thì máy đã ngừng chạy hoặc cho ra đời những phế phẩm! Lúc đó thì đã muộn, nếu chữa được thì máy giảm tuổi thọ, chất lượng sản phẩm giảm, nhưng hầu hết máy phải “đắp chiếu”. “Cái xảy nảy cái ung” từ thói qua loa đại khái sau đó đổ thừa không dám chịu trách nhiệm.
Nhưng có vẻ như tính cách này đang phổ biến trong mọi mặt đời sống xã hội. Dần dần nó trở thành căn bệnh trầm kha và tạo thành nhân cách con người. Thói tùy tiện vô trách nhiệm có thể không làm chết người ngay lập tức nhưng nó tạo ra các phế phẩm gây hại cho con người và lãng phí cho xã hội. Khi sản phẩm là chính con người thì xã hội không có chuẩn mực, luật pháp tùy tiện, cản trở sự phát triển.

Làm gì cũng "đại khái nói chung là tương đối" thì sinh ra những con người cũng chỉ có trình độ hiểu biết và kỹ năng ở tầm tương đối đại khái chung chung, từ đó chắc chắn sẽ làm ra những sản phẩm kém chất lượng thậm chỉ sản phẩm giả! Chấp nhận điều đó dần dần tất cả những giả tạo và kém chất lượng - cả người và sản phẩm - sẽ trở thành bình thường, thang giá trị đảo lộn, không còn chuẩn mực xã hội!
“Đại khái nói chung là tương đối” không chỉ là một cách nói mà là một cách làm, nó thể hiện tính cách lười biếng, tùy tiện và không có ý thức công dân. Mỗi người chỉ cần làm đúng công việc và làm hết trách nhiệm của mình, khi đó xã hội sẽ như guồng máy được vận hành đúng quy trình, giảm thiểu hư hỏng và giữ được độ bền máy móc.
Hãy dạy con trẻ làm “đến nơi đến chốn” vì đó là kỹ năng, tính cách và đạo đức cần thiết đầu tiên của một con người. “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” ngay từ điều này chứ không phải từ lý tưởng xa vời.

Nguyễn Thị Hậu
TBKTSG 11/8/2016


VẪN CÒN NHỚ NHAU (chuyện trẻ sơ tán, tiếp) - 10. NGÕ MAI HƯƠNG

 

10. NGÕ MAI HƯƠNG

Khi về Hà Nội tôi vào học lớp 4. Lúc này nhà tôi chuyển từ tập thể Đoàn Cải lương Nam bộ ở ngõ 23 Ngô Thời Nhiệm gần chợ Hôm – nơi gia đình tôi sống từ khi ba má tập kết ra Bác - xuống ở tập thể của Nhà hát Cải lương trong ngõ Mai Hương, phố Bạch Mai, gọi là Khu tập thể Quỳnh Lôi. Ngõ Mai Hương lúc ấy là một khu mới xây dựng, toàn những dãy nhà cấp 4 mái phibro xi măng, một bên là ao rau muống rộng. Chỉ có hai dãy nhà cao tầng là trường Đoàn Kết và trường Phổ thông công nghiệp Hai Bà Trưng (khác trường Hai Bà Trưng trên khu Hoàn Kiếm). Khu tập thể tôi ở có cái sân cỏ mọc rậm rạp, ba dãy nhà hình chữ U quanh sân, một dãy là phòng tập của Đoàn cải lương. Giữa sân là nhà để mấy chiếc xe tải và một cái hầm trú ẩn rất lởn, bọn trẻ thường chơi trốn tìm ở đó.

Tôi ở khu B cùng với nhiều gia đình khác, trong đó có cô chú nhạc sĩ Phan Nhân – Phi Điểu – hai người em đồng hương thân thiết của ba má tôi. Hồng Quân, con của cô chú, học cùng với tôi. Hồng Quân hồi nhỏ nghịch thôi rồi, lúc nào cũng thấy bạn bị bó bột hết chân rồi tay, không ngày nào không bị ba má la rầy. Cùng học còn có bạn Tiến nhà ở cạnh nhà tôi, bạn Dũng “còi” nhưng thông minh nhất lớp, nhà bạn gần đấy có lò bánh mì, mỗi khi tôi qua đổi bánh bạn thường ưu tiên cho chiếc bánh vỏ dày giòn thơm. Thân nhất với tôi là Mỹ Linh, một bạn người nhỏ nhắn, đôi mắt rợp hàng mi dài rất đẹp, nhà ở dãy trong cùng của khu B. Tôi hay qua nhà chơi với hai chị em Linh, ba mẹ Linh cũng rất quý tôi, còn Linh hay ra nhà tôi học cùng. Có lần vào một tối mùa đông, rất lạnh mà vẫn có muỗi, hai đứa ngồi ở bàn trùm chăn kín chân nhưng muỗi vẫn vo ve bên tai. Bực quá tôi vừa đập chan chát vừa càu nhàu “cái con muỗi này...”, thế là Linh cười mãi, bảo tôi mắng muỗi mà như mắng người ấy.

Chúng tôi học trường Ngô Quyền trong Ngõ Quỳnh thông ra phố Bạch Mai ở gần khu chợ giời. Cô chủ nhiệm lớp 4 là cô Hoàn, sau lên lớp 5 là cô Phương. Nhà cô Hoàn nhà trên phố Bạch Mai, cô hiền lắm. Chúng tôi thường đi bộ lên nhà cô chơi, được cô dẫn đi ăn kem. Cô Phương thì nhà ngay khu C, gần cửa hàng thực phẩm bán thịt. Cửa hàng này hay có mấy cái thông báo viết nguệch ngoạc bằng phấn trên cái bảng đen nhỏ tróc sơn, kiểu như “hôm nay bán thịt trẻ em” (phiếu thịt ký hiệu TR), hay “hôm nay có chân giò, sườn thương binh” (ưu tiên bán cho người có thẻ thương binh). Má tôi hay nhờ chú Phan Nhân (chú là thương binh nhẹ) mua giùm về nấu món gì đó ngon ngon cả hai nhà ăn chung.

Cô Phương lúc đó mới sinh em bé, chồng cô công tác xa nhà. Chúng tôi hay qua nhà cô giúp cô vào sổ điểm, hay mang giùm cô chồng vở nặng đến lớp. Lớp trưởng là bạn Bình Tĩnh học rất giỏi, ít nói nhưng rất chu đáo, hay giúp cô Phương những việc nặng. Hồi đó đi học chúng tôi phải vác bàn ghế của mình, vì lớp học chưa có gì ngoài cái bảng đen. Má tôi nhờ đóng cho tôi bộ bàn ghế xếp gọn rất đẹp, có sợi dây đeo vào vai. Thế là ngày nào đi học chúng tôi cũng như đi hành quân, lưng đeo bàn ghế tay cầm túi, cặp sách. May mà hồi sơ tán đi học luôn đeo mũ rơm to nặng nên cũng đã quen.

Sang đến lớp 6 chúng tôi chuyển ra trường Hà Huy Tập ở đầu ngõ, gần bệnh viện Mai Hương. Chúng tôi có nhiều bạn hơn. Mỗi ngày tôi vẫn “trốn” đi học sớm để chơi nhảy ngựa, nhảy dây chun... đến giờ vào học là đầu tóc quần áo trông như lũ...”nặc nô” - chúng tôi vẫn bị các cô giáo mắng yêu như thế khi đi qua đám con gái đang hò hét nhảy lên đầu nhau.

Ở khu tập thể vào cuốn tuần các nhà hay “ăn tươi”. Chả có gì to tát mà thường là bữa bún chả. Từ sáng sớm bọn con gái rủ nhau đứa đi xếp hàng mua thịt, đứa ra chợ mua rau muống về chẻ, đứa đi bộ lên Trại Găng xếp hàng đổi bún. Gần trưa mùi khói bay thơm phức, nhưng nhà nào cũng có rổ rau và đĩa bún là to, bát nước mắm lớn đầy cà rốt với đu đủ xanh, còn chả nướng thì chỉ vừa một đĩa con.

Hồi ấy cứ mỗi ngày Trung thu thế nào tôi cũng nhận được một món quà nhỏ từ nhà thơ Thanh Tịnh – một người bạn rất thân thiết của gia đình tôi. Còn nhớ, bác Thanh Tịnh đi cái xe đạp “cởi truồng”, không phanh không chắn xích không chắn bánh xe… Bác bảo: xe của bác cái cần kêu thì không kêu (ấy là cái chuông), còn cái không cần thì cứ kêu, mà kêu to (ấy là toàn bộ cái xe, nhất là xích xe, cứ lọc xọc lọc xọc miết…). Đêm trung thu thế nào bác cũng mang đến cho tôi một cái bánh dẻo nguyên vẹn, chỉ là nhân hạt sen (cứng quèo), lớp bột bánh cũng khô và cứng… nhưng sao mà ngon thế không biết! Ngon nhất, là vì được ăn cả chiếc bánh ấy, vì bác dành riêng cho mình tôi. Còn một, hai cái bánh mua bằng phiếu, hay cơ quan “phân phối” thì má tôi thường để dành gửi biếu các bác chủ nhà hồi đi sơ tán, vì “ở Hà Nội mình còn có khi được ăn, chứ ở nông thôn chẳng có đâu con ạ”.

Một năm vào mùa trung thu, đi tàu điện từ chợ Hôm lên Cầu Giấy đến trường Yên Hòa, đi qua phố Hàng Bài, phố Hàng Bông, thấy bán đèn ông sao, lồng đèn con gà con thỏ… tôi cứ mải mê ngắm và ước gì mình có được chiếc đèn ấy. Thèm được cầm cái cán dài dài có dán giấy vòng quanh, được đốt ngọn nến nhỏ xíu trong đèn, được đung đưa nó theo mỗi bước chân. Nỗi thèm muốn mạnh đến ứa nước mắt. Sau này mới hiểu lúc đấy chảy nước mắt vì tủi thân, sự tủi thân không do ai không vì cái gì, chỉ vì không hiểu sao chưa bao giờ (và không bao giờ vì cho đến nay đã già rồi) mình được có một đồ chơi trung thu như thế!

Bây giờ vào mỗi mùa trung thu, nhiều nơi vẫn còn có những trẻ em ước mong có một cái bánh nhỏ, một món đồ chơi giản đơn như thế. Chúng tôi vẫn rủ nhau mỗi người một chút, giúp cho các em nhỏ hoàn cảnh khó khăn có được niềm vui nho nhỏ trong ngày Tết của trẻ em. 

Sài Gòn 11.8.2025

Hình: trẻ con khu tập thể ngày ấy... 




VẪN CÒN NHỚ NHAU (chuyện trẻ sơ tán), phần tiếp theo

 9. LÀNG LÁNG

     Sau tết Mậu thân 1968 thì cơ quan của má tôi được lệnh trở về Hà Nội. Chúng tôi cũng về theo, nhưng không ở Hà Nội mà vẫn phải “sơ tán” gần đó. Bác Quế - bố chị Vân (bạn chị Hiền mà tôi đã kể ở trên) có người quen ở làng Láng nên gửi ba chị em tôi ở nhờ tại đó.

    Làng Láng – tên nôm của xã Yên Lãng - là một làng cổ nằm bên sông Tô Lịch đoạn từ ô Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở. Làng Láng nổi tiếng vì nghề trồng rau thơm, húng Láng ở đây nổi tiếng là thơm ngon. Làng trải dài dọc theo đường Láng có hai hàng cây xà cừ cao vút xanh mát, một bên đường là sông Tô Lịch. Hồi đó con sông chỉ là một cái mương nhỏ, nước đen ngòm, hôi thối. Sát bờ sông phía đường Láng là có những mảnh ruộng nhỏ trồng rau thơm, người ta vẫn lấy nước sông tưới rau. Phía bên kia sông là con đường đất nhỏ của làng Yên Hòa – nơi tôi theo học nốt học kỳ 2 của lớp 3 tại trường Yên Hòa.

Trên đất làng có nhiều chùa cổ, đình, đền cổ xưa rất đẹp. Từ Cầu Giấy vào có Chùa Nền, chùa Láng ở Láng Thượng, Chùa Mứng ở Láng Hạ. Nhà của bác chủ nơi chúng tôi ở nhờ gần Chùa Láng nổi tiếng linh thiêng, mỗi ngày rằm, mùng một nhiều người từ nơi khác đến lễ chùa. Hồi đó tôi nghĩ lại không biết sao giữa thời chiến mà vẫn có người “mê tín dị đoan” như thế? (hồi đó ở miền Bắc đi lễ đình chùa bị coi là “mê tín dị đoan”, nhiều đình chùa bị bỏ hoang hoang hoặc sử dụng làm nhà kho, gần như không còn lễ hội ở các làng cổ). Sau này tôi mới biết chùa Láng thờ vị thánh của Làng tên là Từ Đạo Hạnh rất linh thiêng. Ngài là thánh nhưng sau khi đi tu lại thành chính quả tức là thành Phật nên mới được thờ phụng ở Chùa.

Thời gian ở làng Láng không lâu, nhưng chị em tôi có nhiều kỷ niệm vui vui...

Mỗi sáng, hai chị tôi (chị Hiền, chị Vân) học lớp 10, phải dậy rất sớm đi học trường Trần Phú (từ Hà Nội sơ tán về) tận Cầu Diễn, cách đó khoảng 10 cây số. Hai chị đi bộ vì làm gì có xe đạp hay xe bus đâu. Có lần hai chị đi sớm quá, qua đồn công an ở ngã tư Cầu Giấy (ngay đầu cây cầu xi măng nhỏ, nay đã xây cầu mới to đẹp), mới hỏi giờ, các chú công an nói mới có 4 giờ sáng hai đứa đi đâu sớm thế? Vậy là hai chị ngồi ngay ở trạm, nhờ ánh đèn mà ôn lại bài vở.

Cũng ở đó có một cửa hàng ăn uống của mậu dịch. Chị em tôi thường ăn cơm ở đó cả trưa lẫn chiều. Mỗi sáng hai chị cho tôi 3 hào với 1 cái "tem gạo 225gr", trưa ra cửa hàng xếp hàng mua cơm ăn rồi tự đi học buổi chiều. Cơm mậu dịch quanh quanh chỉ vài món: thường xuyên món mặn là su hào kho hay nhộng rang, canh “toàn quốc” (toàn nước lõng bõng vài cọng rau). Tôi không ăn được nhộng vì... sợ côn trùng từ nhỏ, nhưng rồi cũng phải biết ăn vì chả có gì. Hai chị đi học về ăn sau có hôm không còn thức ăn, chỉ mua được cơm rồi chan nước chè loãng làm canh. Kiểu ăn như thế là bắt chước má tôi, bà thường chan nước lạnh vào cơm và lua rất nhanh “còn để làm việc khác”, nhưng sau tôi mới hiểu là má nhường thức ăn cho các con, có khi chỉ là chén cà chua hấp dầm nước mắm với chút tóp mỡ, có khi là vài miếng đậu phụ kho với maggi.

Có hôm ra cửa hàng nhỡ hết cơm, tôi mang tem đến lò bánh mì gần đấy đổi lấy bánh mì ăn. Nếu chịu khó xếp hàng thì cái tem 225gr và 2 hào được một cái bánh mì nóng hổi, tuy bột đen thui và mùi chua chua, vỏ mỏng dính, nhưng nhờ nóng nên ăn không cũng ngon. Thỉnh thoảng hai bà chị hào phóng dẫn ra cửa hàng mậu dịch ăn phở 3 hào “phở không người lái” (không thịt, nước dùng váng chút mỡ), vậy mà ngon thế không biết! Ở cửa hàng mậu dịch ấy có những cái thìa (muỗng) nhôm mỏng, cong queo, bị đóng đinh đục thủng, múc canh chưa kịp húp đã chảy hết nước canh. Thỉnh thoàng được chị Hiền cho vài hào tôi đến đó mua siro đá hay nước chanh, nhờ cái muỗng thủng mà vớt được vài viên đá nhỏ xíu xiu trước khi nó tan hết, cho vào miệng nhai ngon như ăn kẹo. 

Cũng ở đó tôi được gặp rất nhiều người, có những người quen mặt vì gặp nhiều lần, như hai chị em đứa kia cũng khoảng tuổi tôi, hay ra mua cơm mang về nhà. Đứa chị xách cặp lồng nhôm méo mó dẫn theo đứa em khoảng 3 tuổi, mua hai xuất cơm, lấy thêm chai nước chè loãng từ cái thùng to ở góc có sợi giây buộc mấy cái ca nhôm đen sì cáu bẩn để mọi người uống chung. Có lần tôi xếp hàng sau hai chị em, tôi hỏi, sao đằng ấy không ăn ở đây luôn mà mang về làm gì cho mất công. Đứa chị trả lời: mang về còn có các em ở nhà nữa. Tôi mới biết hai xuất cơm cho bốn chị em ăn chung. Từ lần ấy ra cửa hàng là tôi nấn ná chờ để chia bớt cơm cho bạn, vì tôi ăn không hết.

Mỗi chiều đi học về tôi cũng hay lang thang dọc các ruộng trồng rau thơm, tuy mùi... khó ngửi nhưng nhìn những ngọn rau nhỏ xanh mướt mát, lại có mùi thơm (nếu lén bứt vài cái lá vò vò trong tay) tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Có lần còn bắt chước mấy người tưới rau, đi qua sông Tô Lịch (nhỏ như cái rạch) bằng cây cầu bằng hai thanh tà vẹt đường tàu nhỏ xíu, suýt bị lộn cổ xuống sông, may nhờ có bác kia đỡ. Bác mắng, con gái mà nghịch quá thể, sao lại đi đường này?

Chúng tôi chỉ ở làng Láng một thời gian ngắn, sau đó về nhà ở gần chợ Mơ (hồi đó gọi là “quân khu chợ Mơ” nhưng không nổi tiếng bằng “quân khu Nam Đồng” toàn các "anh hùng" con bộ đội). Mỗi ngày tôi đi học bằng tàu điện từ Chợ Mơ lên Cầu Giấy, chuyển tàu ở Bờ Hồ, qua Đền Voi Phục... Trên tàu có lần tôi bị móc túi, thằng bé cứ khoắng mãi trong cái túi áo của tôi, đến lúc tôi quay lại nói “chả có gì đâu”, nó mới bỏ tay ra và lườm tôi một cái, ý là sao không nói sớm để nó khỏi mất công! Những khi tàu mất điện nếu chờ không được, bọn trẻ hò reo nhau xuống cùng đi bộ, đi mãi đi mãi... Về đến chợ Mơ có khi chỉ còn mình tôi.

Nhiều buổi tối mịt mới về đến nhà, má tôi vẫn chờ cơm, dù luôn mắng “phủ đầu” là con gái con lứa đi đâu giờ này mới về...

Sài Gòn 8.2025

Hình: các loại tem lương thực thời bao cấp từ 1975, các tem thời trước 1975 ở miền Bắc cũng định lượng như vậy nhưng hình vẽ khác.















T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i

 Bùi Chát

T ừ c h ố i đ í c h đ ế n, k h ư ớ c t ừ t h ô n g đ i ệ p: T r ả l ờ i m ộ t c â u h ỏ i s a i
Câu hỏi “Bùi Chát đang đi đâu và hội họa của anh thực sự muốn nói gì?” – như được đặt ra trong bài viết của Tobi Trần – là một câu hỏi sai ngay từ nền tảng. Nó xuất phát từ một hệ hình phê bình cũ kỹ, nơi nghệ thuật bị ép buộc phải vận hành như một hệ diễn ngôn tuyến tính: có mục đích, có lộ trình, có thông điệp.
Tôi xin khẳng định dứt khoát: Tôi không “đi đâu cả”. Và hội họa của tôi không “muốn nói gì” cả. Bởi vì chính ý tưởng về việc nghệ thuật “phải nói gì đó” đã là một áp lực sai lầm, một thứ hình phạt mang tính thể chế, đã quá lâu được sử dụng như công cụ định giá nghệ thuật.
H ộ i h ọ a k h ô n g p h ả i l à d i ễ n n g ô n
Hội họa – đối với tôi – không phải là phương tiện truyền đạt ý tưởng, càng không phải là kênh phát ngôn thứ hai như cách Tobi Trần gán ghép. Tôi không dùng tranh để gửi gắm nội dung, cũng không coi tác phẩm là lời giải cho một câu hỏi xã hội, thẩm mỹ, hay triết học.
Hội họa tình huống – như tôi đang thực hành – không vận hành trên cơ sở ý tưởng tiền lập, mà khởi sinh từ những tình huống trực tiếp của hành vi vẽ: một cú lia cọ sai, một mảng màu tràn mép, một khoảnh khắc mất kiểm soát. Cái gọi là “nội dung” nếu có, chỉ là thứ phát sinh sau hành động, không hề được hoạch định từ trước. Do đó, việc tìm kiếm trong tác phẩm của tôi một thông điệp có cấu trúc hay một kết luận khái niệm là hoàn toàn vô nghĩa.
T ô i k h ô n g d i c h u y ể n – t ô i đ ố i d i ệ n
Tobi Trần muốn tôi “đi đâu đó” như thể nghệ sĩ cần một lộ trình phát triển. Nhưng nghệ thuật không phải là hành trình địa lý hay tiến trình tăng trưởng. Tôi không đi đâu cả – vì tôi đang ở đây. Tôi đối diện với bề mặt vẽ, với khoảnh khắc không thể lặp lại, với tình huống hội họa chưa từng biết trước.
Sự “đang trôi” mà Tobi mô tả – nếu có – không phải là dấu hiệu của lạc hướng, mà là một chủ đích phản-thể chế: từ chối khung đích, từ chối hệ tư tưởng tuyến tính, và từ chối cả những loại “chiến lược nghệ thuật” được định nghĩa từ bên ngoài hành vi sáng tạo.
S ự t h i ế u v ắ n g t r u n g t â m l à m ộ t l ự a c h ọ n m ỹ h ọ c
Bài viết của Tobi chê tranh tôi “không có trung tâm”, “không dẫn dắt trí tuệ”, “không có kết cấu ý niệm”. Điều anh cho là thiếu vắng ấy – thực chất – là kết quả của một lựa chọn mỹ học có ý thức: tôi chủ động gỡ bỏ trung tâm, trì hoãn ý nghĩa, đẩy người xem vào tình huống bất định thị giác.
Tôi không yêu cầu người xem “hiểu”. Tôi muốn họ ở lại, ngập ngừng, nghi hoặc. Hội họa tình huống không yêu cầu sự “thấu triệt”, mà chấp nhận sự mơ hồ như một điều kiện cần thiết cho cảm thụ. Tác phẩm không còn là lời tuyên bố, mà là sự cố thị giác, một cú lệch trong chuỗi tri nhận thông thường.
T r i ể n l ã m k h ô n g p h ả i l à c ô n g b ố t h à n h t ự u, m à l à p h ư ơ n g t h ứ c t ồ n t ạ i
Việc tôi làm triển lãm liên tục không phải là để “che lấp khoảng trống tư duy” như Tobi suy đoán, mà là để duy trì trạng thái hoạt động. Mỗi triển lãm là một lần làm hiện diện tình huống hội họa, là một thử nghiệm sống trước công chúng, không nhắm đến sự hoàn tất mà hướng tới sự tiếp tục.
Tôi không xem triển lãm là nơi trưng bày sản phẩm cuối cùng. Nó là nơi tình huống gặp tình huống: tình huống sáng tác – tình huống nhìn – tình huống phản ứng. Chính trong cái va đập không thể tiên lượng đó, nghệ thuật – nếu còn – sẽ xảy ra.
T ô i c h ủ ý l à m n h i ễ u q u a n h ệ g i ữ a h ì n h v à n g h ĩ a
Việc đặt tên tranh bằng bốc thăm thơ, chơi chữ, hoặc những cú lệch ngữ nghĩa không nhằm đánh lạc hướng mà nhằm phá vỡ thói quen đọc tranh bằng tiêu đề. Tôi muốn tạo ra một khoảng cách giữa hình và từ, giữa cái thấy và cái gọi tên – để người xem không thể dựa vào ngôn ngữ như cái nạng để hiểu hình ảnh.
Trong thơ, tôi làm điều đó bằng cấu trúc rối. Trong tranh, tôi làm điều đó bằng việc thả ngôn ngữ vào chỗ không ai yêu cầu, để nó không dẫn dắt mà chỉ làm tăng thêm sự bất ổn.
K h ô n g a i b ị t h i ế u t ư d u y – c h ỉ c ó c á c h đ ọ c c ủ a T o b i T r ầ n l à b ị đ ó n g k h u n g
Tobi Trần cho rằng tranh tôi “thiếu kết cấu tư duy”. Nhưng vấn đề không nằm ở tác phẩm, mà nằm ở cách đọc đã bị định hình bởi mô hình lý tính cũ kỹ. Phê bình kiểu đó đòi hỏi nghệ sĩ phải xây dựng hệ thống, phải nói rõ điều mình nghĩ, phải tạo ra hành trình. Nhưng tôi – như đã nói – từ chối tất cả các yêu cầu đó.
Tôi không trình bày tư duy kiểu Tobi nghĩ. Tôi hành động trong một tình huống cụ thể, nơi tư duy – nếu có – không phải là hệ thống luận lý, mà là một chuyển động lộn xộn nhưng có thực.
T ô i k h ô n g “trôi” – t ô i đ a n g l à m n h i ễ u h ệ t h ố n g t r i n h ậ n
Tôi không “đang trôi” theo nghĩa buông thả. Trái lại, tôi chủ ý làm nhiễu hệ thống. Tôi không “neo vào bờ nhận thức”, vì chính cái “bờ” đó cần được tháo dỡ. Tranh tôi không dẫn đi đâu cả, vì nó không phải là bản đồ, mà là sự cố.
Nếu nghệ thuật còn ý nghĩa, thì ý nghĩa ấy nằm trong khả năng gây rối loạn tạm thời hệ thống nhìn của người xem – chứ không phải trong việc củng cố những lối cảm thụ an toàn. Tôi không vẽ để ai đó đồng thuận. Tôi vẽ để khiến hệ thống họ lệch khỏi quỹ đạo một chút. Chỉ cần vậy, là đủ.


Ghi chú của tui (Hậu khảo cổ): tâm thức "giải trung tâm" (giải thiêng nghệ thuật kiểu hàn lâm) thực sự thúc đẩy sự phát triển trong thời đại mới. Người còn tư duy "duy tâm" thì khó hiểu và khó chấp nhận những hoạt động thực hành nghệ thuật kiểu của Bùi Chát hiện nay hay của Nhóm Mở Miệng, Khoan Cắt Bê Tông khi trước.

ĐỌC VÀ NGHE NÓI

 

Khoảng mươi năm gần đây văn hóa đọc trở lại như một phong trào xã hội, một sự “cân bằng” lại với xu hướng nghe nhìn đang thắng thế mạnh mẽ nhờ các phương tiện internet. Phong trào đó phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Tuần qua, khi một người có tầm ảnh hưởng vừa ra đi, trong những lời thương tiếc, rất nhiều người nhớ đến anh như một người truyền cảm hứng về văn hóa đọc cho lớp trẻ.

Vì sao hiện nay văn hóa đọc lại quan trọng với xã hội và cần thiết cho mọi người như vậy?

Văn hóa đọc không chỉ là hành vi đọc mà còn bao gồm thói quen, môi trường, thái độ, động cơ và giá trị xã hội của việc đọc. Đọc ở đây là đọc chậm hơn, dài hơn và có chiều sâu hơn từ những sản phẩm in, từ internet. Giá trị của văn hóa đọc, với tôi, không chỉ là biết mà là để hiểu.

Thời nhỏ, tôi tiếp nhận thông tin theo những cách rất truyền thống. Từ những bài ca dao, câu thành ngữ tục ngữ, những kinh nghiệm và tri thức dân gian về thời tiết, về kỹ thuật lao động sản xuất, về ứng xử cộng đồng… đã được “chuyển giao” trực tiếp qua những lần trò chuyện, giảng giải từ thế hệ ông bà, cha mẹ. Những thông tin từ chính quyền về quản lý xã hội cũng được phổ biến từ hệ thống truyền tin như loa phường, hoặc qua các cuộc họp ở xã để “phổ biến thông tin”. Một người “truyền đạt” và tiếp nhận kiểu tập thể. Không phải mọi người đều hiểu thông tin như nhau, nhưng không ai có cơ hội phản hồi.

Cách thông tin “truyền miệng” lâu đời tạo nên thói quen chỉ nghe ở người tiếp nhận, từ thời phong kiến khi xã hội phần lớn là người mù chữ đến thời bao cấp phương tiện truyền thông ít ỏi và lạc hậu. Thời đó sách in không nhiều, người thích đọc luôn “đói sách”, nhưng nhờ vậy mỗi cuốn sách mới là một sự kiện và luôn có những bạn đọc tâm giao.

Cách tiếp nhận thông tin từ chữ viết, tức là cách đọc, biến đổi theo thời gian: Từ loại sách vỡ lòng “Tam tự kinh” đến “bình dân học vụ”, từ “độc quyền”sách in báo giấy đến sự đa dạng về loại hình, phong phú về nội dung của thông tin. Hiện nay phổ biến rất nhiều loại sách in, ebook, báo chí, truyền thông trực tuyến, mạng xã hội... Nếu sách in mang lại cảm xúc và lưu giữ ký ức trong nhiều thế hệ người đọc thì các loại sách hiện diện trên internet mang đến thông tin nhanh, nhiều, mới lạ. Tuy nhiên khi đọc cần có kỹ năng và kiến thức nhất định, có “bản lĩnh” thì thông tin tiếp nhận mới thật sự hữu ích.

Lợi ích và giá trị của sách dù ở hình thức nào cũng chỉ có được khi biết đọc đúng. Bởi vì cách đọc trong quá khứ là “đọc theo, hiểu theo, làm theo” những gì được viết và sự diễn giải chủ quan của một vài người. Còn cách đọc của thời hiện đại là cá nhân hóa quá trình tiếp nhận thông tin đọc – nghĩ – hiểu – hành. Hành là thực hiện những gì được người đọc cho là đúng từ quá trình nghĩ và hiểu của chính mình, không chỉ là làm theo.

Hiện nay sự thay đổi cách thức và mức độ đọc sách đi cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Các loại trí tuệ nhân tạo đã được ứng dụng để “đọc thay” con người, từ một văn bản vài chục trang đến kho dữ liệu đồ sộ trên internet. Điều này giúp con người rút ngắn thời gian tìm kiếm, tránh sự “phát hiện lại châu Mỹ”. Tuy nhiên sử dụng internet không đúng sẽ làm tăng nhanh xu hướng tiếp nhận thông tin kiểu “nghe nói” từ các AI.

Có thể nói hiện nay cách đọc chính là cách ứng xử với thông tin. Ứng xử thế nào xã hội sẽ phát triển như vậy. Tôi, thuộc thế hệ cũ, vẫn thích đọc những tác phẩm của các tác giả yêu thích, về các chủ đề mình quan tâm. Tất nhiên sách in bao giờ cũng là ưu tiên hàng đầu, bởi đó là thói quen, hơn nữa, là ký ức. Song tôi cũng không từ chối những cách đọc khác, nhất là đọc từ Internet. Nhưng đọc kiểu gì tôi cũng luôn tự nhắc: Đọc bằng mắt và bằng đầu của mình, chứ đừng đọc bằng tai kiểu “nghe nói” của thời xưa cũ hay của thời lên mạng hiện nay.

Báo Tuổi trẻ ngày 4.8.2025

 



 

VĂN HOÁ THỊ DÂN Ở THÀNH PHỐ MỚI

 Nguyễn Thị Hậu

Thành phố Đà Nẵng hiện nay bao gồm TP. Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, tuy cùng trong vùng văn hoá “Xứ Quảng” lâu đời nhưng là hai địa phương có bản sắc riêng. Việc sáp nhập đơn vị hành chính thống nhất mang lại một thành phố ĐÀ NẴNG MỚI sẽ có tác động sâu sắc đến cấu trúc kinh tế – xã hội – văn hóa của cả “xứ Quảng”, đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều thách thức, đặc biệt là văn hoá thị dân sẽ có những chuyển biến lớn. Có thể nhận diện một số đặc trưng cơ bản của Đà Nẵng và Quảng Nam, từ đó tìm kiếm những phương thức phù hợp để xây dựng và phát triển “văn hoá thị dân” cho một thành phố trung tâm của khu vực miền Trung.

Đà Nẵng là thành phố trực thuộc trung ương, phát triển hiện đại, định hướng quốc tế hóa. Tính chất đô thị ngày càng được khẳng định: từ đầu những năm 2000 đến nay Đà Nẵng là một trung tâm lớn về văn hoá và dịch vụ. Hạ tầng phát triển nhanh chóng, đồng bộ, nhiều không gian công cộng và sinh hoạt giao lưu văn hoá quốc tế. Dân cư tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, tính chất thị dân ngày càng rõ nét (ứng xử nơi công cộng, dịch vụ, kỷ cương…). Một “thành phố đáng sống” như mục tiêu được đặt ra và như đánh giá của nhiều người dân và du khách.

Quảng Nam là một tỉnh nông – ngư nghiệp, địa hình sinh thái đa dạng từ vùng núi, đồng bằng đến biển và đảo ven bờ. Hạ tầng phát triển chưa đồng bộ, thiết chế văn hoá nông thôn làng xã là chủ yếu. Dân cư chủ yếu sống ở nông thôn hoặc thị tứ nhỏ, văn hoá cộng đồng cao. Truyền thống văn hoá “xứ Quảng” mang tính đặc thù và bền vững. Nhiều di sản văn hoá độc đáo và nổi tiếng: Mỹ Sơn, Hội An, Cù lao Chàm, các làng nghề gốm, mộc, dệt lụa, vùng văn hoá lưu vực sông Thu Bồn…

Thành phố Đà Nẵng mới về cơ bản vẫn là không gian và con người “xứ Quảng”, chung một lịch sử hình thành và phát triển (dù đã có vài lần tách nhập), chung cá tính “người Quảng”, chung nhiều yếu tố văn hoá đặc trưng như ngôn ngữ, ẩm thực… Đó là “cơ sở khoa học” mang lại sự thuận lợi hơn nhiều địa phương khác trong quá trình sáp nhập. Với định hướng Đà Nẵng sẽ là một trung tâm kinh tế lớn, trung tâm dịch vụ và du lịch… thành phố sẽ phát triển nhanh hơn tính chất văn hoá đô thị về cả “vật thể và phi vật thể”: có điều kiện vật chất xây dựng hạ tầng đường xá với vỉa hè, cây xanh, phương tiện giao thông công cộng, các khu đô thị mới hoặc chỉnh trang khu cư trú cũ theo hướng tiện nghi, vệ sinh hơn… Xây dựng các thiết chế văn hoá đô thị (như các cụm công trình rạp phim, nhà hát, thư viện, nhà văn hoá…) ở những vùng nông thôn hiện nay. Cơ sở vật chất là tiền đề cho việc xây dựng ý thức “văn minh đô thị” ở người dân. Đô thị hoá – hiện đại hoá cũng là xu hướng phát triển hiện nay, nhưng nếu được định hướng và lấy một đô thị có “thương hiệu” như Đà Nẵng làm hạt nhân lan toả các yếu tố văn hoá đô thị, thì quá trình này sẽ thuận lợi và phát triển đúng hướng.

***

Tuy nhiên, bất cứ quá trình đô thị hoá nào cũng có hiện tượng “xung đột văn hoá”, thể hiện rõ nhất là văn hoá thị dân. Văn hoá đô thị hướng đến xây dựng phát triển tính chất công dân hiện đại với nền hành chính chuyên nghiệp, “chính quyền và công dân số”. Do đó những khu vực nông thôn bảo lưu văn hoá làng xã, họ tộc, tín ngưỡng dân gian… cần có sự chuyển đổi nhanh chóng để thích nghi với môi trường xã hội và không gian sống mới. Đó là lối sống mới trong môi trường đô thị đông đúc, đa dạng, sinh hoạt theo thời gian “hành chính, công nghiệp”, thích nghi với những thói quen ở đô thị như đúng giờ, không ồn ào, giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng tính cá nhân trong chung cư, khu đô thị mới… 

Người dân thành phố đã quen với nếp sống đô thị như xếp hàng, đúng giờ, không xả rác, sống trong chung cư thân thiện nhưng không tò mò chuyện riêng, giao tiếp hiện đại, đi lại bằng phương tiện công cộng, quen với hiện tượng nhập cư. Nhưng một số yếu tố văn hoá truyền thống có phần phai nhạt như thói quen tụ tập, mối quan hệ dòng họ, sinh hoạt gia đình trong những ngày giỗ chạp tết nhất… Đó là những nét văn hoá được bảo tồn tốt hơn ở nông thôn, tạo thành sợi dây cố kết gia đình, dòng họ, tạo nên tính chất “đồng hương” bền chặt ở nơi xa quê.

Sinh hoạt văn hoá đô thị mang tính hướng ngoại, giao tiếp với cộng đồng đa dạng, văn hoá quốc tế hiện đại. Còn sinh hoạt văn hoá miền quê mang tính hướng nội, giao tiếp chủ yếu trong họ hàng, làng xã, tổ chức và duy trì văn hoá truyền thống bản địa… Vì vậy không chỉ vùng nông thôn mà cả ở đô thị đều cần có thêm nhận thức và hiểu biết, điều chỉnh và thay đổi để tăng cường sự thông cảm, hoà nhập thực sự. Từ đó mới có chuyển biến trong lối sống và những yếu tố văn hoá khác. Đồng thời, hai mô hình sinh hoạt văn hoá cần có những điều kiện vật chất và thiết chế khác nhau. Do đó, nếu không có chiến lược điều chỉnh, thích ứng từ cả hai phía một cách hài hoà, khách quan, dễ dẫn đến hiện tượng “đô thị đồng hoá nông thôn”, xoá bỏ những giá trị truyền thống độc đáo. Hoặc ngược lại, “nông thôn hoá đô thị”, trong không gian mang dáng vẻ đô thị nhưng sinh hoạt theo kiểu nông thôn, kiến trúc – quy hoạch lộn xộn, không rõ chức năng, bản sắc mờ nhạt, kỹ năng “sinh tồn” ở đô thị kém, con người thấy xa lạ không thuộc về đô thị mình đang sống…

***

Làm thế nào để tất cả người dân thành phố Đà Nẵng cảm thấy tự hào là công dân một thành phố hiện đại, không bị “gò bó” theo cách quản lý đô thị? Làm thế nào để văn hóa thị dân Đà Nẵng vừa tiên tiến vừa giữ được bản sắc Xứ Quảng? Đó là những câu hỏi mà chính quyền và người dân thành phồ cần có sự đồng tâm nhất trí để tìm ra câu trả lời.

Xu hướng phù hợp là xây dựng "văn hoá đô thị hoà hợp" vừa bảo đảm đô thị Đà Nẵng giữ vai trò trung tâm hiện đại; các đô thị cổ như Hội An, Tam Kỳ giữ vai trò kết nối với vùng đồng bằng và miền núi, nơi bảo tồn bản sắc truyền thống. Trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí văn hoá thị dân tôn trọng sự đa dạng văn hoá, không đồng nhất cưỡng chế.

Gìn giữ và tích hợp văn hóa bản địa vào vùng đô thị mới. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống theo hướng chuyển hóa, thích nghi với cuộc sống đô thị. Đồng thời xây dựng hạ tầng và không gian văn hóa công cộng, các thiết chế văn hoá đáp ứng nhu cầu cụ thể của cộng đồng dân cư từng khu vực. Đặc biệt coi trọng vai trò cộng đồng trong việc tham gia xây dựng, giáo dục, truyền thông và phổ biến văn hoá thị dân, bởi hơn ai hết, cộng đồng hiểu rõ việc tạo dựng văn hóa thị dân từ thực tiễn sinh động của chính mình.

Không thể phủ nhận vai trò của văn hoá thị dân trong phát triển đô thị, trong việc góp phần tạo dựng và gìn giữ bản sắc đô thị. Từ những định hướng hành vi và lối sống của cư dân sẽ tạo nền tảng xây dựng “thành phố văn minh”, “xã hội công dân”. Văn hoá đô thị với thị dân là chủ thể, là nguồn tài nguyên cho phát triển công nghiệp văn hoá – du lịch, nền kinh tế quan trọng của các thành phố nói riêng và của thế giới nói chung trong thế kỷ 21.














Đám giỗ Má

 Nhanh quá, mới đó mà Má xa tụi con 2 năm rồi...
Nay tụi con làm mâm cơm cúng Má, mời Ba và anh chị Hai về cùng Má. Cả nhà tụ tập đông đủ: con và chị, các cháu nội ngoại, các cháu cố, có cả các em con cậu Chín ở Cao Lãnh lên nữa. Mỗi người một tay nên mâm cúng đầy đủ, có cả những món Má thích. Bữa cơm ấm cúng.

Từ ngày Má mất sao con thấy con ngày càng giống Má :) cũng hay nhắc nhở con cháu cái này cái kia, để nghe tụi nó trả lời: mẹ giống ngoại quá rồi nha :) Ừ thì cũng đến lúc con sẽ như Má, chỉ mong sau này con được bình an tỉnh táo như những ngày cuối của Má.
Nhớ Má...









ĐẠI KHÁI NÓI CHUNG LÀ TƯƠNG ĐỐI

Không khó để đọc hoặc nghe thấy lời đánh giá, nhận xét bằng những từ này. Nó phổ biến đến mức ghép các từ lại cũng thành một câu như “trạng ...