NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN CỦA TÔI


1. Hơn bảy mươi năm trước, vào năm 1942, ba tôi tốt nghiệp trường sư phạm Lasan Taberd ở Sài Gòn và được phân về dạy tại Cái Răng, Cần Thơ. Sau đó ông xin về dạy trường tiểu học huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang) - quê nhà - để tiện chăm sóc ông bà nội tôi.
Ông dạy lớp Nhứt nhưng được nhiều học trò các lớp khác biết và quý mến, vì là thầy giáo nhưng ông “có máu đờn ca hát xướng” – như một người học trò của ông là nhà văn Nguyễn Quang Sáng sau này nhớ lại. Thầy giáo mà biết đờn ca là một điều rất lạ đối với đám học trò ở một trường huyện xa xôi. Sau giờ học vào buổi chiều, ba tôi dạy hát cho học trò bằng cây đờn Banjo tiếng nghe giòn tan, vui tươi. Rồi ông thành lập nhóm “văn nghệ” vào ngày hè đi biểu diễn gây quỹ giúp học sinh nghèo trong trường. Tiếng hát của học trò đã mang lại sức sống cho phố huyện, ban hát của thầy trò đi đến đâu cũng được bà con ủng hộ.
Từ cách mạng tháng Tám 1945 ba tôi đi kháng chiến, ông từ giã bục giảng để “đi hát”: lập đoàn hát biểu diễn suốt chín năm rồi tập kết ra miền Bắc năm 1954. Thời gian chiến tranh ông thường dẫn Đoàn cải lương Nam bộ, Kịch nói Nam bộ đi chiến trường phục vụ bộ đội. Trong chuyến đi, có lần ông đến biểu diễn tại một binh trạm trên cung đường Trường Sơn. Ở đó trong cuộc trò chuyện một bác sĩ đã nhận ra ông là thầy giáo của mình hồi lớp Nhứt. Thầy trò gặp nhau mừng rỡ, bác sĩ quân y vẫn cung kính gọi ông là thầy xưng con như thủa ấu thơ.
Sau này nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã viết về ông qua nhân vật thầy giáo trong tiểu thuyết Dòng sông thơ ấu. Ông và nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng là hai người bạn thân thiết.

2. Ba tôi là người Thầy đầu tiên của tôi, không chỉ dạy chữ mà Ba dạy tôi làm Người. Một đoạn tôi viết về Ba vào ngày giỗ lần thứ 10 của ông (1995):
Năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết. Trong không khí náo nức chung tôi có một niềm vui nhỏ dành tặng ba nhân ngày đầu năm. Đó là việc tôi thi đậu vào trường Nghệ thuật Sân khấu. Khi tôi hồi hộp báo tin, không như tôi nghĩ, ba ngồi lặng với vẻ băn khoăn lo lắng. Cuối cùng ba nói với tôi, trang nghiêm mà trìu mến:
- Ba rất vui khi có một đứa con muốn nối nghiệp ba. Trước khi con tự quyết định tương lai của mình, ba muốn nói với con điều này. Mọi nghề nghiệp đều đẹp và đều sẽ thành công nếu ta lao động kiên nhẫn và trung thực. Nhưng trong nghệ thuật thì còn phải có một điều kiện quan trọng, đó là tài năng. Không có tài thì không có vai diễn hay, mà đã là diễn viên phải là một diễn viên giỏi. Đây không phải là chuyện danh tiếng mà là chuyện làm gì để có ích nhiều hơn cho mọi người, cho xã hội, và cho bản thân mình.
Với ba tôi, danh hiệu “nghệ sĩ” thật là cao quý… Lần đầu tiên ba tâm sự với tôi về nghề nghiệp cùng những buồn vui thăng trầm của cuộc đời nghệ sĩ, khi hiểu được điều đó tôi mới thực sự trở thành “người bạn” nhỏ của ba.
Khi tôi tốt nghiệp đại học và được trường giữ lại làm giảng viên, ba tôi rất vui vì trước đây ông cũng là một thầy giáo. Ông hay nói với tôi: “Người thầy giáo cũng như người nghệ sĩ. Phải yêu nghề, yêu người, yêu đời sâu sắc thì mới có thể đứng trên bục giảng hay trên sân khấu để mang đến cho mọi người những điều tốt đẹp của cuộc sống. Thầy giáo hay nghệ sĩ đều là những “kỹ sư tâm hồn”, nhưng tiếc rằng giữa hai nghề này luôn có một khoảng cách khá xa… Người thầy giáo thì thiếu tâm hồn nghệ sĩ, còn người nghệ sĩ lại thiếu đạo đức của người thầy!”

3. Gần như cả cuộc đời ba tôi đi theo “nghiệp hát”, là người nghệ sĩ nhưng ông giữ được nhiều thói quen sinh hoạt của nghề giáo. Đó là sự ngăn nắp, sạch sẽ; thói quen ghi chép những điều nhìn thấy, cảm nhận, đặc biệt là tình yêu sách vở. Anh chị em tôi thừa hưởng được tình yêu với văn học nghệ thuật và thói quen đọc sách từ ba, biết dành dụm tiền mua sách, biết chọn sách để đọc, và biết chia sẻ cảm xúc sau khi đọc một cuốn sách, xem một bộ phim hay vở kịch... cũng là nhờ ba tôi!
Là thầy giáo của một thời còn phong kiến nhưng ông rất dân chủ trong nuôi dạy con cái: không áp đặt trong mọi suy nghĩ, hành xử, chỉ phân tích đúng sai; luôn trao đổi và lắng nghe nhất là khi con cái có khuyết điểm, và ông cũng thường xuyên nói chuyện về công việc của mình cho con nghe, hỏi nhận xét của các con về những “chuyện đời” mà ông chứng kiến, ông còn nói với các con những lỗi lầm của mình để các con biết mà tránh... Ba tôi luôn nói rằng, điều này ông được thừa hưởng từ người Cha, tức là ông nội của tôi, chứ không phải từ giáo dục trong trường học, vì thời đó thầy giáo Việt thì còn phong kiến lắm, thầy giáo Pháp thì rất coi thường người Việt.
Sự dân chủ, công bằng này còn là phương châm hành xử của ông trong nhiều cương vị lãnh đạo, trong đối nhân xử thế với bạn bè, đồng nghiệp, người thân. Sau này đọc những gì ông nội tôi viết để lại cho con cháu tôi càng thấy rõ "truyền thống" này của gia đình tôi.
Và như một điều tất yếu, giữa ba tôi và thầy Trần Quốc Vượng đã có một tình bạn đặc biệt. Dù hai người ít có dịp găp nhau nhưng cả hai rất quý trọng nhau, vì/và đều truyền dạy cho tôi những điều cơ bản về một con người tự do!
Đấy là những điều tôi học được từ Ba tôi - người Thầy đầu tiên của tôi!

Hình: Ba mình năm 1982 tại báo Tuổi trẻ, và mình - năm 1973 thi vào trường sân khấu :)




Power & Purpose | Asia's Most Influential VN 2024

 https://www.tatlerasia.com/people/nguyen-thi-hau-vn?fbclid=IwY2xjawGYTppleHRuA2FlbQIxMQABHUVwtUXQ0DNW7v0RYQoKKMX_bLVuZ2aeuQn0_EQiZmd9ZjvrFkmI_NvsIA_aem_pfZZWp9ucl2ldWrtktUPcA

Có chung trong danh sách với những người nổi tiếng thật sự, mình vui vì công việc bảo vệ di sản được ghi nhận! Xin cảm ơn!


Nguyễn Thị Hậu

Nhà khảo cổ học

 

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu là chuyên gia trong ngành khảo cổ học tại Việt Nam

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu được biết đến thông qua trang blog Hậu khảo cổ, nơi bà chia sẻ các kiến thức ngành khảo cổ, những chiêm nghiệm trong cuộc sống và truyền cảm hứng nghiên cứu văn hóa cho thế hệ sau. Quan tâm đến lĩnh vực bảo tồn di sản lịch sử - văn hóa Việt Nam nói chung và di sản đô thị Sài Gòn - TPHCM nói riêng, Tiến sĩ đã chia sẻ nhiều bài phản biện, phỏng vấn, công trình nghiên cứu về bảo tồn di sản văn hóa cũng như các thành tựu nghiên cứu khảo cổ học phía Nam cho cộng đồng. Từ đó làm nảy sinh sự quan tâm trong cộng đồng đối với các lĩnh vực trên.

Tiến sĩ Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu hiện đang sinh sống và làm việc tại Sài Gòn. Bà hiện đang là Phó Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Sử học TP.HCM và giảng dạy tại trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM. Bà cũng từng thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo, Sa Huỳnh và khảo cổ học đô thị TP.HCM.

Ngoài ra, bà cũng xuất bản nhiều quyển sách về khảo cổ như Đô thị Sài Gòn - TP.HCM: Khảo cổ học và bảo tồn di sản, ​​Khảo cổ học bình dân Nam bộ - Việt Nam,... Bên cạnh chủ đề khảo cổ, bà còn viết về nhiều vấn đề khác dưới góc nhìn của một người nghiên cứu văn hóa, một nhà báo và một nhà văn, tiêu biểu có thể kể đến Thế giới mạng và tôi, Sài Gòn bao giờ cũng thế, Thương những miền qua,...

Thông qua công việc của mình, Tiến sĩ mong muốn có thêm nhiều người ủng hộ và cùng lên tiếng để ngăn chặn những hành vi phá hoại và làm tổn thương di sản văn hóa; bảo vệ di sản từ việc bảo tồn các công trình, bảo vệ ký ức của cộng đồng qua nhiều thế hệ. Bà cho rằng, việc lưu truyền những di sản văn hóa là góp phần bồi đắp tình cảm, trách nhiệm của cộng đồng người Việt trong và ngoài nước đối với Tổ quốc.


ĐƯỜNG SẮT CAO TỐC CẦN GÌ?

 @ Nhân chuyện đường sắt cao tốc (ghi lại ý kiến của mình ở một cuộc họp cách hơn nửa năm về việc này)

Đường sắt cao tốc (tầm quốc gia) hay metro (tầm thành phố) đều vô cùng cần thiết! Ai đi nước ngoài cũng thấy tầm quan trọng của metro trong các đô thị lớn, tàu cao tốc nối các tỉnh thành, vùng miền.... Bên cạnh đó còn phổ biến hệ thống đường sắt bình thường chở hành khách ghé tất cả các ga (nhiều người dùng phương tiện này để đi làm hàng ngày), hay vận chuyển hàng hóa đêm ngày ngang dọc khắp đất nước.
Cần thiết là như vậy, quan trọng là như vậy, nên để xây dựng đường sắt cao tốc hay metro, hay bất cứ dự án hạ tầng giao thông nào cũng đều xuất phát từ 3 điều kiện cơ bản.
- Kinh phí
- Thời gian
- Kỹ thuật
Chọn 1 trong 3 yếu tố trên là quyết định thì hai yếu tố kia phải phụ thuộc, phù hợp. Ví dụ: muốn xây ĐSCT thì tiền đầu tư (dự kiến) là X. Với số tiền ấy thì thời gian hoàn thành sẽ là Y và cần sử dụng kỹ thuật công nghệ Z. Tức là tiền sẽ quyết định sử dụng kỹ thuật nào, của quốc gia nào (đường, tàu, đào tạo nhân lực, hệ thống bảo trì bảo hành nào phù hợp...), và sẽ cho thời gian bao lâu thì hoàn thành? Ngoài ra còn phải tính toán chi tiết các vấn đề mặt bằng, đất đai, đời sống người dân bị ảnh hưởng...
Vậy, nếu quyết xây ĐSCT thì TRƯỚC HẾT PHẢI XÁC ĐỊNH RÕ: TIỀN, KỸ THUẬT, THỜI GIAN YẾU TỐ NÀO LÀ QUYẾT ĐỊNH? Không thể cứ chung chung kiểu “đây là thời cơ, thách thức, lợi thế...”! Bắt đầu dự án nào cũng cần xác định từ những điều kiện thực tiễn và xác định mục tiêu quan trọng nhất là phát triển giao thông nhanh và thuận lợi hơn hiện tại. Bắt đầu một dự án nào cũng cần BẮT ĐẦU ĐỒNG BỘ mọi thành phần liên quan: tàu cao tốc là tàu, đường, kỹ thuật bảo hành, nhân lực phục vụ, KẾT NỐI CÁC TUYẾN, GA VÀ DỊCH VỤ TẠI GA...
Mình từng đi tàu cao tốc ở nhiều nước, gần nhất là đi vài chuyến tàu cao tốc ở Trung quốc. Những nơi mình đã đi tàu cao tốc thực sự vé chẳng rẻ hơn máy bay là bao, thậm chí có nơi có chuyến còn đắt hơn vé máy bay giá rẻ 😊 Hầu hết các chuyến tàu hành khách khá đông. Ví dụ ở Hàn quốc, từ Seoul đi Busan bằng tàu cao tốc, đọan đường khỏang hơn 450km đi mất 2g55ph, giá vé khá đắt (đi/về mất khỏang 85 USD). Tàu đúng giờ đi và đến, chỉ dừng ở 3 ga chính, tốc độ thường khỏang 250km/h, có lúc lên 300km/h (bảng báo tốc độ tàu, ga đến thường xuyên hiện lên). Tiện nghi trên tàu (vệ sinh, wifi, ăn uống, các loại ghế...) rất tốt. Ở TQ xe lửa cũng có nhiều loại, loại cao tốc hiện đại (nhanh nhất, vé đắt nhất) và không có chế độ giảm giá cho người trên 60 tuổi như các loại tàu khác.
Như vậy tàu cao tốc không phải phương tiện “phổ thông” cho mọi nhu cầu. Thời gian là vàng bạc, thật thế, nên cần tàu cao tốc để tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả công việc, tức là tăng “vàng bạc”. Chắc chắn rất rất ít người ngồi tàu cao tốc “để đi ăn trưa ăn tối” hay “đi học đi chợ” ở một nơi cách hàng trăm thậm chí hàng ngàn km (như có người từng phát biểu ở nghị trường), không khác nào ra đường chạy xe máy như điên, vượt cả đèn đỏ, suýt gây tai nạn... tưởng có việc gì khẩn cấp hóa ra đến quán cà phê chỉ để ngồi đồng cả ngày không làm gì cả 😊
Và nếu có những tuyến bus lines có thể thay thế một phần của tàu “chợ” thì tàu cao tốc không thể thay thế đường sắt bình thường dùng chở hàng hóa vừa hiệu quả vừa an toàn hơn.



TIẾP CẬN BẢN CHUẨN ĐỊA ĐỒ GIA ĐỊNH HƠN 200 NĂM LƯU LẠC (Phạm Hoàng Quân)

 Địa đồ "Gia Định tỉnh" do Trần Văn Học soạn vẽ năm 1815 (địa đồ TVH) đã rất được biết đến. Tuy nhiên, các bản lưu hành từ trước tới nay đều là phiên bản không hoàn chỉnh, cho tới rất gần đây.

Địa danh chữ Hán Nôm ghi trên các bản đồ phiên bản tối đa chỉ 32 nơi, và nhiều sai sót. Vài năm trước, may mắn thay, Bảo tàng TP.HCM sưu tập được từ nguồn tư nhân bức địa đồ cùng tên, nội dung vượt xa các bản đã biết.

Tôi nhận định bức địa đồ này chín phần là địa đồ Gia Định do Trần Văn Học thực hiện, có thể là bản gốc, nên học giới có thể lấy làm bản chuẩn trong những nghiên cứu sắp tới.

Bài ở đây ạ
https://tuoitre.vn/tiep-can-ban-chuan-dia-do-gia-dinh-hon-200-nam-luu-lac-20240928072156312.htm?fbclid=IwY2xjawFnFHVleHRuA2FlbQIxMQABHUxKMf9QpWKFPS8OBuYYQOs4Pnp4uYe1IgjsvieKyKNWXIQHqKRLsF_UuQ_aem_6677V6qq_ztpGIf_QP68TQ

Trước khi bức địa đồ của Bảo tàng TP.HCM xuất hiện, địa đồ Gia Định tỉnh cơ bản có một số bản như sau:

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 2.

Tuy không phải xuất hiện sớm, nhưng được phổ biến rộng là bản đồ hỗn hợp địa danh tiếng Việt, in trong Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 1-Lịch sử (1987, tr.229).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 3.

Tạm gọi đây là Bản đồ hỗn hợp 1987 vì địa danh ghi trên đó vốn không phải chuyển dịch địa danh chữ Hán Nôm từ địa đồ TVH gốc, mà thâu thập địa danh chữ Latin từ Trương Vĩnh Ký và nhiều nguồn khác, có nhiều địa danh hành chánh không phù hợp.

Bản đồ hỗn hợp 1987 do đó chỉ có thể giúp tìm hiểu đại cương về địa danh, địa điểm ở địa bàn Sài Gòn thời Minh Mạng, chứ không thể hiện quan điểm của Trần Văn Học, không thể là nguồn tham cảo tin cậy về bối cảnh Sài Gòn năm 1815, do đó khó thể trích dẫn nếu đi sâu vào lãnh vực bản đồ học.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 4.

Sớm thấy trong nghiên cứu có thể dẫn trường hợp Louis Malleret, qua công trình Elements d’une Monographie des anciennes fortifications et Citadelles de Saigon (Bulletin de la Societe des Etudes Indochinoises, no. 4, 10-11/1935); và Les Anciennes Fortifications et Citadelles de Saigon (1674-1859) (Các thành cổ và công sự cũ ở Sài Gòn 1674-1859, Nhà in Nguyễn Văn Của, Sài Gòn, 1936).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 5.

Địa đồ “Gia Định tỉnh” do L. Malleret dẫn (1935 & 1936). Ảnh: Tư LIệU PHQ

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 6.

Bản đồ này địa danh chữ Hán-Nôm, không có lạc khoản (chữ Hán), chưa rõ ông dựa vào đâu để ghi chú (tiếng Pháp) thời điểm soạn vẽ.

Bản đồ cũng ghi đúng tên tác giả Trần Văn Học, và thời điểm soạn vẽ mùng 4 tháng 12 năm Gia Long thứ 14 (1815), ghi chú không ghi kích thước địa đồ.

Đây là bức địa đồ được sao chép (tạm gọi Phiên bản 1), đã bị cắt mất phần phía Đông (sông Sài Gòn, và bờ đông sông); không ghi địa danh, địa điểm nhiều nơi ở phía Bắc (lăng Bá Đa Lộc, lăng Duệ Tông, Hanh Thông xã, chợ Bến Cát…), và phía Tây (Gò Bình Hưng, Rạch Lao), đây cũng là tình trạng chung của các phiên bản.

Địa danh và địa điểm, ngoài mất đi do địa đồ bị cắt, phần còn lại cũng ghi thiếu rất nhiều, chỉ còn lại 32 địa danh (bằng 1/3 so với bản Bảo tàng TP.HCM).

Địa danh Nôm cũng viết sai và thiếu nhiều chỗ.

Chẳng hạn địa danh Gò Bàu Tròn và Gò Tân Định, với chữ Gò (ࡍ?) viết sai tự dạng (bộ thổ sai ra bộ ngọc, nhiều phiên bản sai cùng lỗi này).

Hai bên địa điểm "Trường Súng" thiếu 2 vị trí có ký chú "Mô súng đại bác" và "Mô súng cối" (các phiên bản đều không thể hiện và ký chú 2 vị trí này), thiếu sót này ảnh hưởng rất lớn đến tính hệ thống trong việc mô tả trận địa phòng thủ hay diễn tập mà Trần Văn Học lưu ý.

Đồn Rạch Bàng, Đồn Cá Trê trên các phiên bản đều chỉ vẽ ký hiệu mà không ghi tên. Những thiếu sót này trên địa đồ phiên bản hẳn sẽ hạn chế lớn việc phân tích của công trình Malleret.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 7.

Năm 1962, học giả Thái Văn Kiểm cho xuất bản chuyên khảo "Interpretation d'une carte ancienne de Saigon" trên Bulletin de la Societe des Etudes Indochinoises, n.s., 37, no. 4 (1962).

Phiên bản này, tạm gọi Phiên bản 2, ghi kích thước 27,3 x 38cm, cũng là bản sao chép không hoàn chỉnh, giống với bản Malleret.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 8.

Địa đồ Gia Định 1815 trong khảo cứu của thái Văn Kiểm. ảnh: tư liệu PhQ

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 9.

Có chỗ lấn cấn là trên địa đồ minh họa đếm thấy tổng cộng 33 địa danh (kể cả tiêu đề "Gia Định tỉnh"), nhưng bảng liệt kê kèm theo lại ghi 36 địa danh (Rạch Bến Chùa, Rạch Bến Chiếu, Rạch Bần không có viết tên Nôm trên địa đồ).

Sự so le giữa địa đồ minh họa với bảng địa danh đối chiếu cũng là một nghi vấn trong việc sử dụng các nguồn tư liệu trong khảo cứu của Thái Văn Kiểm.

Bảng đối chiếu còn có vài địa danh sắp chữ hay ký âm sai, như "Ngả tắt Mụ Chiểu" (tức Bà Chiểu), sai là "Ngả tắt Mụ Trị", do chữ Chiểu (沼) với chữ Trị (治) có tự hình gần giống, nên nhận lầm.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 10.

Kinh viện hơn, ta thấy Whitmore trong sách Lịch sử bản đồ học (1994) có dẫn hình ảnh và phân tích về bản đồ Gia Định tỉnh (The History of Cartography, Volume 2, Book 2, Chapter 12: Cartography in Vietnam. The University of Chicago Press, Chicago & London, 1994).

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 11.

Bản đồ Gia Định Whitmore, trang 502, trích từ the history of cartography- Volume 2, Book 2, chapter 12. ảnh: tư liệu PhQ

Whitmore ghi chú dẫn bản đồ từ Thái Văn Kiểm (tạm gọi Phiên bản 2 bis).

Ở góc độ nghiên cứu bản đồ học, Whitmore nhận ra địa đồ TVH đánh dấu bước chuyển biến về nhận thức và kỹ thuật.

Ông đọc được trên đó rằng "Các con đường lớn nhỏ và thành lũy có vẻ như rất chính xác, cùng những tòa nhà và ao hồ được thể hiện bằng ký hiệu đường viền quanh".

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 12.

Nhận định này dựa trên trực quan, Whitmore nhận thấy sự hợp lý về độ dài ngắn các cung đường trên tổng thể, hay cách dùng ký hiệu hình học để biểu thị nhà cửa phố xá (khác hẳn các địa đồ trước thường ước lệ và dùng ký hiệu tượng hình).

Nếu như Whitmore khảo sát đúng bản chuẩn, có lẽ sẽ đánh giá cao hơn nữa đối với địa đồ TVH, có lẽ là bức địa đồ Việt Nam đầu tiên áp dụng tỉ lệ xích theo quy cách địa đồ Tây phương.

Tóm lại, các phiên bản kể trên, được sử dụng trong nghiên cứu từ 1935 đến 1994, đều là những bản không toàn vẹn, đã được phổ biến rộng khắp.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 13.

Địa đồ hiện lưu tại Bảo tàng TP.HCM. Tiêu đề ghi "嘉定省" (Gia Định tỉnh), và dòng lạc khoản: "嘉隆十四年十二月初四日正監城欽奉掌奇臣陳文學奉畫地圖" (Gia Long thập tứ niên, thập nhị nguyệt, sơ tứ nhựt, Chánh giám thành Khâm phụng Chưởng cơ, thần Trần Văn Học phụng họa địa đồ) [Chánh giám thành, Chưởng cơ Trần Văn Học vâng mạng soạn vẽ địa đồ.

Ngày mùng 4 tháng 12 năm Gia Long thứ 14 (1815)].

Trong những phiên bản lưu hành trong học giới trước nay, chỉ thấy bản này đặc biệt ghi rõ lạc khoản, với thời điểm soạn vẽ và tên tác giả. Địa đồ có kích thước 50 x 31,5cm, trên Nam dưới Bắc, địa danh chữ Hán-Nôm, trên nền giấy.

Có thể tin đây là bản chuẩn.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 14.

Có thể 3 chữ "Gia Định tỉnh" là do nhân viên ở sử quán viết thêm vào sau năm 1832, lúc đã lập tỉnh Gia Định.

Có điểm cần lưu ý là, trên bản chuẩn này, tiêu đề và lạc khoản viết ngược 180 độ so với hệ thống địa danh, tức để đọc địa danh thì phải xoay ngược địa đồ.

Một lý do khác, để có thể hiểu vì sao Trần Văn Học không thể là người đề lên địa đồ 3 chữ "Gia Định trấn" hay "Gia Định tỉnh" là ông đương thời theo "Tây học", chắc hẳn nắm rõ địa bàn thể hiện trên địa đồ. Với phạm vi này, có thể hiểu đại khái ngày nay là "bản đồ nội thành Gia Định và phụ cận", chứ không thể là địa đồ cả tỉnh hay trấn Gia Định được.

Địa đồ TVH có hơn 80 địa danh, địa điểm, cho thêm rất nhiều thông tin, có thể cung cấp nhiều dữ liệu tốt trong nghiên cứu nhiều lãnh vực.

Với cá nhân tôi, tôi rất bất ngờ do trước đây cứ nghĩ J. L. Taberd là người đầu tiên ghi nhận địa điểm Holăng (Lăng Cha Cả), nay mới biết té ra Trần Văn Học đã vẽ rõ khuôn viên lăng và ký chú "Thiếu phó quan lăng", kế bên là khu lăng lớn hơn của Duệ Tông (Cựu Thượng hoàng lăng), ở phía bắc xã Hanh Thông (địa đồ chỉ ghi "Hanh Thông").

Một ví dụ khác: Trước đây nghiên cứu về đường Thiên lý Bắc Nam, tôi tham khảo nhiều nguồn mới biết con đường Bình Quới, giờ thấy địa đồ này vẽ rõ con đường, lại ký chú đủ địa điểm 3 nơi "Đò Đồng Cháy", "Rạch Đồng Cháy" và "Đồng Cháy quán".

Hay rất thú vị với tên "Ngả Tắt Lò Giấy", một tên rạch đã mất hẳn chưa thấy địa bạ hay sử chí nào nói đến, ứng với đoạn sông Bến Cát - Vàm Thuật khoảng chảy qua chỗ cầu Băng Ky.

Từ đó có thể suy đoán nơi này trước đây 200 năm từng có xóm nghề làm giấy nổi tiếng đến độ thành địa danh con rạch.

Về lịch sử hình thành các khu thị tứ, địa đồ này ghi tên "Thủ Thiêm thị" ngay bên bờ đông sông Sài Gòn (đối ngạn góc đường Tôn Đức Thắng), chợ này nằm giữa hai con rạch nhỏ, với ký hiệu hình học biểu thị nhiều khu nhà dọc bờ sông lớn về phía nam; và chợ Bến Cát (nay khoảng cuối đường Nguyễn Thái Sơn, gần bến đò Miếu Nổi) với ký hiệu nhà phố đăng đối liên tiếp và tản mát hai bên bờ rạch.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 15.

Địa lý môi trường và cảnh quang qua địa đồ TVH thật sinh động với sự thể hiện toàn vẹn khúc sông Sài Gòn ôm vòng phía đông thành Gia Định.

Thời điểm Trần Văn Học vẽ địa đồ, bên kia bến đò Đồng Cháy (Bình Quới) là địa bàn trấn Biên Hòa, việc diễn tả tổng thể phương diện hành chánh và quân sự địa bàn trung tâm trấn Gia Định không thể thiếu yếu tố giao thông, tức con đường cái quan huyết mạch về phía bắc, cho nên sông Sài Gòn cùng với bán đảo Thanh Đa là một bộ phận không thể tách rời.

Lạ thay, các phiên bản lại cắt mất không gian ấy. Vụ cắt xén này, nói vui một chút thì mấy tay làm phiên bản chỉ vì hà tiện một tấc giấy mà làm sai lệch ý đồ khái quát hóa rất hoàn chỉnh của Trần Văn Học.

Ai từng coi qua nhiều bản đồ do bộ phận do thám và quân đội Pháp thực hiện trong giai đoạn dòm ngó và tấn công thành Gia Định (1858-1861) sẽ thấy, về hiện trạng địa lý, nhiều bản đồ họ vẽ đều căn cứ nền địa đồ TVH, chỉ khác là thêm nhiều chi tiết về các địa điểm quân sự, và lược bớt nhiều yếu tố tự nhiên cùng các đối tượng thể hiện hình thái kinh tế.

Với mục đích quân sự, gắn liền với giao thông, các bản đồ Gia Định qua sự diễn tả của quân đội Pháp luôn thể hiện toàn vẹn khúc sông ôm vòng bán đảo Thanh Đa, với con đường bộ đi Biên Hòa.

Với địa đồ TVH bản chuẩn này, chúng ta thấy rõ được chân tích của một địa đồ quan trọng bậc nhứt trong lịch sử hình thành một thành phố tươi đẹp, ứng dụng khai thác nó cho điều mới mẻ và điều chỉnh những thiếu sót hoặc sai lầm trong những nghiên cứu trong 200 năm qua.

Tiếp cận bản chuẩn Địa đồ Gia Định hơn 200 năm lưu lạc - Ảnh 16.

(*) Tác giả trân trọng cám ơn tiến sĩ Lương Chánh Tòng, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu và Bảo tàng TP.HCM đã chia sẻ bản chụp với chất lượng khá tốt bức địa đồ TVH bản chuẩn, để viết bài này.

 
PHẠM HOÀNG QUÂN

NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN CỦA TÔI

1. Hơn bảy mươi năm trước, vào năm 1942, ba tôi tốt nghiệp trường sư phạm Lasan Taberd ở Sài Gòn và được phân về dạy tại Cái Răng, Cần Thơ. ...