Tượng đài tưởng niệm nạn nhân COVID-19: Nhớ quá khứ, bài học hiện tại, hướng về tương lai

https://tuoitre.vn/tuong-dai-tuong-niem-nan-nhan-covid-19-nho-qua-khu-bai-hoc-hien-tai-huong-ve-tuong-lai-20251021224045624.htm?fbclid=IwY2xjawNlcn5leHRuA2FlbQIxMQABHsyDWKuHwYTT1JHRGcKOg4AA8osnNNv2UodNN1oP6udePNDCQp0vVl59-26__aem_qkLy9pT-WdmdseHhcKZoHg

Mất mát từ đại dịch ở TP.HCM cần có vị trí tưởng niệm

Trong đại dịch Covid-19 ở TP.HCM đã có 23.000 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong. Nay Thành ủy TP.HCM có chủ trương sẽ xây dựng một công trình tượng đài tưởng niệm đã nhận được nhiều tình cảm quan tâm của người dân TP.

Mới đây tại Hội nghị tổng kết 50 năm văn học- nghệ thuật TP.HCM, Bí Thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đã thông tin về chủ trương biến khu đất số 1 Lý Thái Tổ (phường Vườn Lài) thành công viên, trong đó có bố trí tượng đài tưởng niệm đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong vì đại dịch Covid-19. 

Chủ trương của lãnh đạo TP đã chạm đến tình cảm của người dân TP về một trang sử đau thương của TP. Tuổi Trẻ trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu xung quanh về ý tưởng làm tượng đài tưởng niệm này.

Cần công trình tưởng niệm xứng đáng

Bà đánh giá thế nào về chủ trương của về việc xây dựng tượng đài tưởng niệm nạn nhân Covid-19 ở TP.HCM ?

Đại dịch Covid-19 là đại nạn của TP.HCM cũng như cả nước và thế giới. Có thể nói tổn thất từ đại dịch là rất lớn sau chiến tranh xảy ra ở nước ta và thế giới. Mất mát từ đại dịch kéo dài 2 năm này là hàng chục nghìn nhân mạng tử vong, hi sinh. Chưa kể là các thiệt hại về kinh tế, chấn thương tâm lý lâu dài cho những người còn lại. Nhất là hàng nghìn trẻ em mồ côi. Đây là sự mất mát không dễ nguôi ngoai. Những ai đã trải qua những ngày đại dịch, dù có thiệt hại trực tiếp hay không thì cũng không thể quên được.

Và sự kiện này rất đáng để nhớ đến. Việc nhớ đến không phải là kéo dài nỗi đau thương. Bởi sự kiện này còn là bài học lịch sử trong thời bình mà thế hệ sau cần biết, cần được giáo dục. Đến nay TP có chủ trương làm tượng đài tưởng niệm về những người đã hi sinh, tử vong cũng như những sự kiện từ đại dịch thì công trình này là rất cần thiết. Tương tự như ở Nhật có các công trình tưởng niệm nạn nhân sóng thần hay Trung Quốc có công trình tưởng niệm nạn nhân của trận động đất ở Đường Sơn năm 1976.

Bản thân là một người dân TP tôi rất mừng và cảm động với thông tin làm công trình tưởng niệm. Chủ trương này chạm được đến rất sâu tình cảm của người dân TP. Bởi tính cách của người dân Nam bộ không hay than thở, không muốn nhắc nhiều về chuyện cũ, sau đại dịch là nhanh chóng gượng dậy, phục hồi đời sống, phát triển kinh tế. Nhưng rõ ràng không ai quên những mất mát đau thương trong đại dịch.

Và tôi tin rằng rất nhiều người dân TP cũng mong muốn, cùng suy nghĩ như tôi.



Như vậy theo bà, những tổn thất nhân mạng từ đại dịch, dù là trang sử đau thương nhưng xứng đáng có một công trình, vị trí tưởng niệm ở TP?

Đúng vậy, rất xứng đáng. TP từ lâu đã tổng kết đưa vào tầm nhìn phát triển đặc điểm « nghĩa tình » bên cạnh các mục tiêu « văn minh, hiện đạị »…

Rất nhiều đồng bào, cán bộ, chiến sĩ hi sinh, tử vong rất đáng tôn vinh. Họ là những người đã có những đóng góp vào sự phát triển của TP. Sự hy sinh trong thời bình cũng cần được tôn vinh, nhất là đối với những người dân bình thường lại càng cần thiết, bởi họ làm nên sức sống của một trung tâm kinh tế như TP.HCM.

Nghĩa tình của người dân TP trong đại dịch thể hiện từ sự đùm bọc, sẻ chia với nhau, giữa người dân TP với vùng miền khác, nghĩa tình đồng lòng với lãnh đạo TP vượt qua đại dịch, phục hồi kinh tế. Vì vậy, công trình tưởng niệm để ghi ơn, tri ân người dân đã mất, hi sinh là một nghĩa cử chạm được đến cảm xúc của người dân.

Tượng đài cần gần gũi, chạm cảm xúc người dân  

Theo bà chưa nói đến hình khối, màu sắc, vật liệu cụ thể của tượng đài tưởng niệm thì bà mong muốn công trình đó thể hiện được những đặc điểm, tính chất thế nào từ cuộc chiến chống đại dịch ở TP ?

Như đã nói mất mát từ đại dịch là không gì có thể đong đếm được với không chỉ người dân mà cả chính quyền TP. Bởi lẽ tôi tin rằng lãnh đạo Trung ương và TP  đã chịu không ít áp lực, trăn trở, day dứt trong các quyết sách chống dịch mà từng giây, từng giờ là sự mất mát thêm nhân mạng.

Nhớ đến đại dịch chúng ta sẽ nhớ đến sự mất mát về sức khỏe, nhân mạng của người thân, gia đình, hành xóm, bạn bè, những đồng bào cả nước. Chúng ta sẽ nhớ đến lực lượng y bác sĩ, cán bộ, chiến sĩ hi sinh trong đại dịch ; nhớ đến những người ở TP đã sẻ chia với những người không thể sống nổi ở TP phải bỏ về quê…Tất cả cả những điều đó tạo thành bức tranh quá nhiều ý nghĩa.

Thế nhưng trên tất cả những mất mát thì khi nhớ về đại dịch thì chúng ta nhớ về đặc trưng quan trọng của người Sài Gòn. Đó là tình nghĩa, là hành động ngay và luôn, giúp được gì là giúp. Không phải chỉ những hành động anh hùng thì mới đáng tôn vinh mà những nghĩa cử thầm lặng, chia sẻ vô tư vẫn rất đáng trân trọng. Nó bắt đầu từ thùng nước trà đá miễn phí, vài ổ bánh mì, vài hộp cơm treo ven đường… Trong đại dịch thì đó là bó rau, viên thuốc, chia sẻ bình oxy, ATM gạo…

Vì vậy tôi rất mong công trình tưởng niệm sẽ khắc họa, thể hiện được tính cách đó, để người dân thành phố sẽ thấy mình trong đó, thấy những câu chuyện thuộc về mình. Về quy mô tượng đài chắc sẽ được tính toán cụ thể, nhưng theo tôi  cần làm càng giản dị, tiết kiệm, càng thực chất thì càng đi vào lòng dân. Tránh xây dựng một công trình phô trương hào nhoáng sẽ làm lu mờ cái tâm của những người còn sống với người đã mất, xoá nhoà ý nghĩa của tượng đài.

Với mong muốn đấy nên chăng TP nên tổ chức lấy ý kiến rộng rãi từ người dân về công trình tượng đài tưởng niệm ?

Tôi nghĩ công trình tượng đài, tưởng niệm có ý nghĩa lớn như thế này thì rất cần sự hiến kế, hiến ý tưởng từ người dân để nhận được sự đồng thuận, bảo đảm công trình thể hiện được tình cảm và ý chí của chính quyền và nhân dân.

Theo bà việc tổ chức tượng đài tưởng niệm ở khu đất số 1 Lý Thái Tổ dự kiến làm công viên sẽ thuận lợi như thế nào ? Và TP cần làm gì với các công trình tại đây ?

Công trình tượng đài tưởng niệm gắn với một công viên là rất phù hợp. Người dân đến công viên vừa để trở về với thiên nhiên, tận hưởng không gian xanh, lại có thêm công trình tưởng niệm mang tính tâm linh gắn với sự kiện lịch sử đau thương của TP, vừa mang tính giáo dục cho thế hệ trẻ.

Tại khu đất trên hiện có 7 biệt thự cổ rất phù hợp để bảo tồn, chuyển đổi công năng thành cơ sở văn hóa, làm nơi cho giới trẻ đến tổ chức các hoạt động văn hóa, trình diễn chương trình ca nhạc dân tộc, trưng bày tác phẩm nghệ thuật… Gần vị trí tượng đài tưởng niệm thì nên sử dụng 1, 2 biệt thự làm nơi trưng bày hình ảnh, kỉ vật… về đại dịch covid -19. Nơi trưng bày này cần thể hiện được tinh thần chia sẻ, đùm bọc, nghĩa tình, là hành động vượt lên phục hồi đời sống, khắc phục khó khăn phát triển kinh tế sau đại dịch.

Khu đất số 1 Lý Thái Tổ có giá trị lịch sử, gắn với kí ức của người dân TP nhưng có thể nói là từ nhiều năm nay trở nên xa lạ, không thân thuộc với người dân TP, lãng phí do cách quản lý và sử dụng… Nay tổ chức khu đất này thành không gian công viên cây xanh – hoạt động văn hoá sẽ góp phần nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Tại đây người dân được thụ hưởng không khí trong lành, cảnh quan đẹp đẽ, tham gia các hoạt động văn hoá, tham quan khu vực tưởng niệm để được nhắc nhớ về câu chuyện của gia đình mình, của TP mình trong đại dịch. Khu đất này vì thế sẽ trở thành một công trình văn hoá mang nhiều giá trị và ý nghĩa.

Ái Nhân - BÁO TUỔI TRẺ NGÀY 22/10/25



 


 

 


THÊM KHÔNG GIAN VĂN HÓA CHO THÀNH PHỐ

 https://tuoitre.vn/hien-trang-khu-dat-ben-nha-rong-va-nha-khach-chinh-phu-se-lam-cong-vien-20251019164251947.htm

"Chủ trương của Thường trực Thành ủy TP.HCM sẽ ưu tiên sử dụng khu đất Bến Nhà Rồng và khu đất Nhà khách Chính phủ hoang hóa nhiều năm làm công viên và công trình thiết chế văn hóa nghệ thuật. Bí thư Thành ủy TP.HCM Trần Lưu Quang đã thông tin về chủ trương tổ chức Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại khu vực Bến Nhà Rồng, và sử dụng khu đất Nhà khách Chính phủ tại số 1 Lý Thái Tổ làm công viên tại Hội nghị tổng kết 50 năm văn học - nghệ thuật TP.HCM tổ chức ngày 18-10".

Nhân thông tin mới này, mình đăng lại bài viết trên báo Tuổi trẻ hồi tháng 10/2019 cũng về chủ đề này

SÔNG SÀI GÒN - NGUỒN LỢI CHO AI?

Nguyễn Thị Hậu

Sài Gòn – một đô thị sông nước với sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé  là “xương sống” dựng nên thành phố hai bên bờ với trung tâm hành chính, thương mại, dịch vụ phía quận 1, quận 5; trung tâm công nghiệp chế biến, cảng thị… phía quận 4 quận 8. Nay do sự phát triển thành phố và nhu cầu cải tạo môi trường nên nhiều cơ sở công nghiệp đã di dời, không gian đôi bờ sông trở thành “mảnh đất vàng” đối với các nhà đầu tư.

Việc xây dựng những chung cư cao cấp, khách sạn và trung tâm thương mại cao cấp là không thể thiếu đối với một thành phố hiện đại. Tuy nhiên, hai bên bờ sông cần được dành một diện tích thích đáng cho không gian công cộng, đồng thời quy hoạch các công trình lớn có khoảng lùi thích hợp với bờ sông sẽ làm tăng giá trị khu vực gần cũng như xa hơn bờ sông. Quan trọng hơn, không gian dành cho cộng đồng tạo ra sự thân thiện của một thành phố hiện đại với chính dân cư của nó chứ không chỉ là vẻ đẹp dành cho du khách hay tiện nghi cho một bộ phận dân cư khá giả.

Điều này ở TP.HCM không khó để thực hiện, bởi vì phần lớn đất đất đai bên bờ sông Sài Gòn thuộc quyền quản lý của nhà nước. Quy hoạch với mục đích nào, tỷ lệ bao nhiêu… hoàn toàn phụ thuộc vào tầm nhìn và ý chí của chính quyền đô thị. Vấn đề còn lại là việc xác định: đô thị , gồm không gian cảnh quan, di sản văn hóa, môi trường tự nhiên… là của cộng đồng dân cư – có quyền lợi và trách nhiệm với nguồn vốn xã hội này cho phát triển bền vững; hay chỉ là nguồn lợi trước mắt của các nhà đầu tư địa ốc và một bộ phận rất nhỏ trong công đồng.

Nhữnng con sông chảy qua thành phố được coi  là một lợi thế về cảnh quan tự nhiên, bên cạnh lợi thế về giao thông và môi trường. Sông qua thành phố tạo nên diện mạo của thành phố. Nhiều đô thị hình thành bên bờ sông quan trọng của một vùng, con sông như đường giao thông kết nối đô thị với những vùng xung quanh và là “điểm nhấn” trong quy hoạch đô thị bởi vì nơi đó là không gian công cộng: công viên, khu dịch vụ vui chơi giải trí, không gian nghệ thuật đương đại (trưng bày các tác phẩm điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt), không gian lễ hội... Công trình được ưu tiên xây dựng là những cây cầu như những “chứng nhân” lịch sử thành phố: quá trình mở rộng, nhu cầu giao thông của dân cư, kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật và kiến trúc... Những cây cầu có khi còn trở thành biểu tượng của thành phố, chúng đẹp hơn là nhờ khoảng không gian thoáng đãng hai bên bờ. Điều này Đà Nẵng đã làm rất tốt với sông Hàn, trong khi đó đã nhiều năm qua TP.HCM không có cầu mới bắc qua sông Sài Gòn.

Quy hoạch bờ sông tốt sẽ góp phần nâng cao giá trị của cảnh quan nhân văn từ cảnh quan tự nhiên. Làm đẹp hơn cho cảnh quan này và tạo điều kiện cho mọi người được hưởng thụ giá trị văn hóa ở đôi bờ sông, đó là trách nhiệm của chính quyền. Lịch sử phát triển của Sài Gòn – TP.HCM đã gắn liền với sông Sài Gòn và đây là một ưu thế trời phú không phải thành phố nào cũng có được. Vấn đề là theo thời gian, chính quyền có biết cách tận dụng ưu thế đó hay không. Câu trả lời và hành động như thế nào thuộc về chính quyền và nhà quản lý rồi đây sẽ lưu dấu cho thế hệ mai sau.

https://tuoitre.vn/song-sai-gon-nguon-loi-cho-ai-20190910234814227.htm



TP.HCM cần làm gì để bảo tồn, phát huy giá trị khu Nhà Bưu điện trung tâm?

BUỔI TỌA ĐÀM TẠI BÁO NGƯỜI ĐÔ THỊ:
https://nguoidothi.net.vn/tp-hcm-can-lam-gi-de-bao-ton-phat-huy-gia-tri-khu-nha-buu-dien-trung-tam-50290.html

 Nỗi ưu tư, lo lắng của những tiếng nói có trách nhiệm và cộng đồng quan tâm đến di sản là hoàn toàn có cơ sở, một phần cũng bởi vì “từ 5 năm trước, thành phố đã mất đi quá nhiều di tích lịch sử”, TS. Nguyễn Thị Hậu nhập cuộc. Bà cho rằng di tích là lịch sử sống động để giáo dục thế hệ trẻ, nuôi dưỡng tình yêu, niềm tự hào, tự trọng của người dân với nơi mình đang sống.

TS. Nguyễn Thị Hậu cho rằng di tích là lịch sử sống động để giáo dục thế hệ trẻ, nuôi dưỡng tình yêu, niềm tự hào, tự trọng của người dân với nơi mình đang sống.

Từ khía cạnh lịch sử, khu nhà Bưu điện trung tâm TP.HCM nằm ở trung tâm của thành Gia Định, là khu vực cảnh quan lịch sử quan trọng nhất của đô thị, tập trung những công trình xây dựng sớm nhất, trở thành dấu hiệu nhận diện quan trọng nhất của đô thị và đến nay, khu vực này vẫn đang là trung tâm của TP.HCM.

Ngoài giá trị kiến trúc, giá trị thời gian, di sản còn có một giá trị vô cùng quan trọng mà các nhà hoạch định chính sách ít quan tâm đến là giá trị cộng đồng, là ký ức, tình cảm của cộng đồng đối với di sản. Chính vì vậy mà cộng đồng lên tiếng khi di sản bị đe dọa, tổn thương.

Tuy nhiên, cộng đồng chỉ là một trong bốn tác nhân, theo bà Hậu, tác động tích cực đến di sản. Và thực tế là tiếng nói cộng đồng có khi lại yếu thế. Tác nhân có tính quyết định là chính quyền thành phố với sự hỗ trợ từ những cơ quan tham mưu. Kế đến là những nhà đầu tư, những người được giao quản lý sử dụng trực tiếp di sản hoặc công trình có di sản.

Sau hai cột mốc lịch sử 1954 và 1975, phần lớn những công trình di sản quan trọng ở khu vực trung tâm được nhà nước tiếp quản. Thay mặt nhà nước quản lý, sử dụng nhưng người ta không quý trọng di sản với nhiều công trình. Hoạt động kiểm kê gặp khó khăn vô cùng.

Bà Hậu dẫn chứng, có một công trình có giá trị kiến trúc lịch sử gần chợ Bến Thành người ta không muốn đưa công trình vào danh mục kiểm kê để xếp hạng di tích. Họ than phiền không gian chật chội, thiếu chỗ làm việc, đề nghị được đập cũ xây mới. Nhưng cũng có trường hợp khi thành phố đề nghị phương án hoán đổi một khu đất rộng hơn để xây văn phòng làm việc, trả lại di sản cho thành phố quản lý thì họ lại đổi ý.

Tác nhân thứ ba là những nhà chuyên môn. "Hiện tượng xâm hại di sản ở TP.HCM hoặc nhiều địa phương có ý kiến của những nhà chuyên môn hay không? Xin thưa là có. Không phải nhà nước không lắng nghe ý kiến từ những nhà chuyên môn, mà vấn đề là nhà chuyên môn nói kiểu gì? Nói kiểu này không nghe nhưng xoay kiểu khác lại được nghe", bà Hậu cho biết.

Bà Lê Tú Cẩm cho biết Hội Di sản văn hóa TP.HCM sẽ sớm có văn bản kiến nghị UBND TP.HCM ban hành Quyết định tạm dừng cấp phép các dự án liên quan đến khu nhà Bưu điện trung tâm TP.HCM.

Một mâu thuẫn tồn đọng nhiều năm là lợi ích tài chính trước mắt, là giá trị cơ bản của công trình di sản hơn là giá trị di sản. Nôm na công trình đó mặt tiền bao nhiêu, có thể quy đổi ra bao nhiêu tiền mặt. Quy chế quản lý cảnh quan khu trung tâm 930ha dừng lại ở những tiêu chuẩn về kiến trúc như chiều cao công trình, diện tích sàn,… là chưa đủ, cần mở rộng quy định về công năng sử dụng phù hợp với từng loại hình không gian cảnh quan cụ thể.

Bảo vệ di sản không phải là câu chuyện trong nhà. Thế giới quan sát cách chúng ta ứng xử với di sản. Bà Hậu cho biết khi gửi bài viết về công trình Ba Son tiếp cận từ góc độ di sản công nghiệp để đăng trong một cuốn sách xuất bản tại Pháp, hội đồng phản biện đặt câu hỏi việc đập bỏ Ba Son cũng như một số công trình Pháp xây dựng trong giai đoạn thuộc địa có phải vì những công trình này là do Pháp để lại? “Nếu như trước năm 2000 thì có thể, nhưng từ năm 2000 trở lại đây thì động cơ là giá trị đất đai”, bà Hậu nhắc lại câu trả lời với phía phản biện. 

THƯƠNG DÂN, DÂN THỜ

 Nguyễn Thị Hậu

https://nld.com.vn/van-nghe/thuong-dan-dan-tho-20220830202745461.htm

Đã rất lâu rồi tôi mới có dịp tham dự một Lễ Giỗ trang trọng, thành kính theo nghi thức cung đình mà không khí vẫn ấm cúng, gần gũi như trong một gia đình Nam bộ. Năm nay, ngày 27/8/2022 (nhằm ngày 1 tháng 8 âm lịch) là tròn 190 năm ngày kỵ của Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt. Tại Lăng Ông Bà Chiểu, Lễ giỗ Đức thượng công được tổ chức đặc biệt theo nghi thức tế lễ Tiểu cung đình triều Nguyễn, các nghi thức được cử hành theo phong cách hoàng cung dành cho các vị khai quốc công thần.

Trong 3 ngày giỗ (tiên thường, chánh giỗ, hậu thường), Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt đón khách thập phương đến dâng hương, tham quan và đặc biệt là thưởng thức hát bội - loại hình nghệ thuật được Đức Tả quân rất yêu thích lúc sinh thời. Lễ phẩm cúng giỗ gồm trà, rượu, trầu cau, bánh Gia Định xưa cùng các vật phẩm trái cây Nam bộ, các loại hoa quả được kết thành hình long- mã - phụng cùng các món ăn đặc trưng phương Nam.

Trong suốt “ba ngày giỗ” những người tham dự hầu như không có sự phân biệt địa vị, hoàn cảnh xã hội… Mọi người đến đây đều nghiêm trang mà không xa cách. Người tham gia các nghi lễ, người vô thắp nhang, người viếng mộ, người coi hát bội hay xin xăm… đều vui vẻ niềm nở với nhau. Tất cả diễn ra trong một sự đồng cảm gắn bó thầm lặng, giống như đám cúng đình trong một làng xưa, hay một đám giỗ họ rất đông con cháu từ các nơi tụ tập về. Lăng Ông những ngày này thực sự là một không gian thiêng, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, tưởng nhớ Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt, cũng là nhớ ơn các vị tiên hiền hậu hiền đã có công mở mang bờ cõi, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Một Lễ Giỗ hết sức độc đáo, không chỉ là nghi lễ thì dành cho “công thần khai quốc” nhưng lễ hội “thờ thần” đậm nét dân gian dành cho mọi người. Độc đáo vì trải qua bao thăng trầm của thời cuộc, lòng dân vẫn nguyên vẹn tình nghĩa với vị Tổng trấn đã có công rất lớn với Gia Định thành và Lục tỉnh nam kỳ, tài giỏi cương trực mà số phận chịu nhiều oan khuất. Có thể có những lễ hội khác người nườm nượp đông hơn, vật cúng rực rỡ hoành tráng hơn, việc cầu xin thần thánh cũng đa dạng hơn thực dụng hơn… Nhưng với đám giỗ Tả quân Lê Văn Duyệt thì vẫn tục xưa lề cũ, lời cầu khấn “quốc thái dân an” chưa bao giờ mất đi ý nghĩa và giá trị.

***

Mỗi vùng đất, mỗi thành phố đều có những truyền thống và đặc trưng riêng, hình thành từ điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Truyền thống lịch sử và những đặc trưng về con người luôn là “hành trang” quan trọng nhất mà mỗi địa phương luôn mang theo trong quá trình phát triển. Truyền thống của một vùng đất, một cộng đồng là những gì được lắng đọng và lưu truyền qua quá trình lịch sử dài lâu, hình thành từ sự thích ứng với thiên nhiên và tính cách văn hóa của cộng đồng. Truyền thống mang tính bền vững, thường được bổ sung qua từng giai đoạn, trở thành “sợi chỉ đỏ xuyên” suốt từ quá khứ đến hiện tại và tương lai của cộng đồng, vùng đất đó.

Như truyền thống thờ cúng tổ tiên ông bà được “hiện thực hóa” bằng đình làng, nhà thờ, lăng miếu xây dựng ở nơi “phong thủy” hài hòa. Trong ngôi nhà thì vị trí trang trọng nhất dành cho bàn thờ ông bà. Ngày đám giỗ trong gia đình, ngày lễ Kỳ yên ở đình làng thờ cúng thần linh và những người có công khai hoang lập ấp… là ngày mà cả gia đình, cả làng xóm cùng cộng đồng trách nhiệm. Bởi vì tình cảm gia đình, quê hương là thiêng liêng nhất, là sợi dây gắn kết mọi người, gắn kết nhiều thế hệ. Từ những truyền thống hình thành nên đặc trưng cơ bản, tinh túy, “bản sắc”, mà nếu thiếu hay mất đi đặc trưng ấy thì khó có thể nhận diện một vùng đất, một cộng đồng. Có thể nói ngày giỗ Đức Tả quân Lê Văn Duyệt và những hoạt động lễ hội ở Lăng Ông cũng có ý nghĩa như vậy đối với dân cư Sài Gòn – Gia Định, rộng hơn là cả vùng Nam bộ.

Trong nhiều chuyến khảo sát, nghiên cứu ở Nam bộ, nơi đâu cũng bắt gặp những di tích thờ cúng các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa thời Nguyễn, nơi đâu cũng gặp những tích truyện, ca dao tục ngữ, hò vè về thời mở đất hơn ba trăm năm trước... Tâm thức dân gian của cư dân Nam bộ thường “hồi cố lịch sử” đến thời Chúa Nguyễn. “Hồi đó, ông bà mình theo Chúa Nguyễn lưu lạc vô đây...”. Chúa nào, không ai biết cụ thể chỉ biết là Chúa Nguyễn ở đâu tuốt ngoài xứ Huế, ngoài miền Trung. Có công đưa lưu dân vô tới Nam bộ, đưa “ông bà” vô khai khẩn vùng đất này chính là nhờ các đời chúa Nguyễn… Xa lắc xa lơ hơn ba trăm năm nhưng người Nam bộ vẫn coi nhau có chung một giọt máu đào nguồn gốc... Ông bà thường kể lại cho con cháu để nhớ về cội nguồn như vậy.

Huống chi đó là những người có công lao lớn đối với việc mở mang, xây dựng và bảo vệ vùng đất phía Nam và với người dân miền Nam, như Đức Tả quân Lê Văn Duyệt.

Có một câu nói mà càng ngẫm càng thấy chí lý: “dân đã thờ ai thì không bao giờ lầm”. Một bài học rút ra từ lịch sử, để nhận biết những gì khuất lấp dưới bụi thời gian, và cũng để thế hệ sau tự răn: đừng tự cho mình quyền phán xét tình cảm của nhân dân, dù nhân dân có khi chỉ là một cộng đồng nhỏ về số người, hẹp về địa bàn sinh sống! Bởi vì chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi… chỉ có những giá trị mà nhân dân, mà cộng đồng thực sự coi trọng sẽ tồn tại mãi: đó là nhân cách, lòng khoan dung, sự chính trực của những con người đã “thuộc về lịch sử”.

***

Lăng Ông Bà Chiểu là công trình văn hóa tâm linh lớn và quan trọng nhất Sài Gòn, vì đây không chỉ là Đền thờ mà còn là nơi có phần mộ của Đức thượng công và phu nhân, sau nhiều oan khuất đã được sửa sang, xây lại đàng hoàng, có miếu thờ giản dị luôn được mọi người thành kính viếng thăm. Một công trình tuy không bề thế, nhưng cảnh quan kiến trúc hài hòa, không gian tâm linh uy nghiêm. Nhân dân đã tôn vinh gọi mộ và đền thờ của Lê Văn Duyệt là Lăng Ông với tất cả lòng thành kính. Có một thời cổng tam quan của Lăng Ông đã trở thành một biểu tượng văn hóa của Sài Gòn. Ngày 6/12/1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.

Còn nhớ, cách đây hai năm vào tháng 9/2020, nhân lễ giỗ lần thứ 188 của đức Tả quân Lê Văn Duyệt, đoạn đường Đinh Tiên Hoàng nơi tọa lạc của Lăng Ông đã được đổi lại mang tên Lê Văn Duyệt. Việc làm này của chính quyền thành phố đã nhận được sự đồng thuận của nhân dân TP. HCM nói riêng và Nam bộ nói chung. Nhân dân miền Nam coi ông như một vị thần, hình tượng Đức Tả quân đã trở thành tín ngưỡng trong tâm thức của người dân. Và mới đây, ngày 25/8/2022, cũng tại Lăng Ông đã tổ chức lễ đón nhận bằng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Lễ hội Khai hạ - Cầu an” truyền thống, được tổ chức tại Lăng Đức Tả quân vào mùng 7 Tết Âm lịch hàng năm, cầu mong mưa thuận gió hòa và kỳ vọng một năm mới công việc thuận lợi, cuộc sống bình an.

Đức Tả quân Lê Văn Duyệt được người dân Nam bộ tôn kính, thờ cúng nghiêm cẩn, liên tục, lâu dài không chỉ vì những công lao của ông, mà còn vì ông là một vị đại thần chính trực, một nhân cách lớn của thời đại ông. Trong mọi giai đoạn lịch sử, Lăng Ông là một địa điểm tín ngưỡng, tâm linh quen thuộc và quan trọng của nhân dân vùng đất Sài Gòn – Gia Định từ xưa đến nay, biểu hiện cho lòng kính trọng của nhân dân miền Nam với Tả quân Lê Văn Duyệt. Mỗi năm, Lễ giỗ Đức thượng công là dịp cố kết tình cảm cộng đồng khi cùng hướng về cội nguồn, nhớ ơn tiền nhân qua những nghi lễ thờ cúng Đức Tả quân Lê Văn Duyệt và các nhân vật lịch sử tại đây.

Repost nhân sự việc này:
https://tuoitre.vn/youtuber-dang-thong-tin-sai-lech-ve-ta-quan-le-van-duyet-so-van-hoa-va-the-thao-tp-hcm-len-tieng-20251016161543701.htm






KHÔNG GIAN VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA TP.HCM

 https://znews.vn/khong-gian-van-hoa-dac-trung-cua-tphcm-post1593430.html?fbclid=IwY2xjawNbyaRleHRuA2FlbQIxMQABHpIj4UZ0vvl2N-cZGtYA4SQrLXLq2mPduyrH-qGaq43LM6b3awS_oJ3pwSzi_aem_A2hg5QBRy0LszX5Pz-KQxQ

Văn hóa đọc là đặc trưng của TP.HCM, được bắt nguồn từ rộng dài lịch sử và không ngừng định hình bản sắc đô thị trong thời hiện đại.

“TP.HCM là trung tâm kinh tế nhưng cũng là một trung tâm văn hóa lớn, và văn hóa đọc chính là một điển hình”, TS Nguyễn Thị Hậu, tác giả Đô Thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cổ học và bảo tồn di sản, khẳng định.

Nhà nghiên cứu nhìn nhận văn hóa đọc ở TP.HCM có chiều sâu lịch sử từ những chợ sách cũ, thói quen đọc báo in phổ biến trong đời sống thường nhật, đến nhu cầu tiếp cận tri thức bình dân của người dân. Đó là một truyền thống văn hóa đã được cộng đồng duy trì qua nhiều thế hệ và góp phần hình thành bản sắc đô thị.

Có thể nói, TP.HCM không chỉ giữ vai trò đầu tàu kinh tế mà còn là trung tâm văn hóa, nơi văn hóa đọc trở thành một phần cấu trúc tinh thần đô thị. Định hướng chính sách trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I (nhiệm kỳ 2025-2030) cho thấy thành phố đang định hình một chiến lược phát triển văn hóa bền vững. Trong đó, sách không chỉ là sản phẩm đơn thuần mà là công cụ để phát triển toàn diện con người và bản sắc đô thị.

Điểm đến văn hóa giữa lòng "siêu đô thị"

Theo TS Nguyễn Thị Hậu, Đường sách Nguyễn Văn Bình nói riêng và đường sách trên địa bàn thành phố nói chung là sự kế thừa đúng đắn và có chọn lọc của dòng chảy tri thức lâu đời tại TP.HCM. Thành phố từng nổi tiếng với các chợ sách lớn và truyền thống đọc báo, đọc sách sâu rộng trong cộng đồng.

Nhà nghiên cứu gọi Đường sách Nguyễn Văn Bình là “một không gian văn hóa rất đặc trưng, có hiệu quả cả về văn hóa lẫn kinh tế”, đồng thời xem địa điểm này như một “không gian di sản văn hóa mới” của thành phố. Không chỉ là nơi bán sách, Đường sách đã từng bước chuyển mình thành điểm hẹn cộng đồng, gắn với nếp sống thị dân và trở thành điểm du lịch văn hóa đặc trưng giữa lòng “siêu đô thị”.

Nửa đầu năm nay, Đường sách TP.HCM ghi nhận doanh thu hơn 31 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ. Song, điều đáng giá là 212 sự kiện văn hóa đọc, giao lưu, nghệ thuật đã được tổ chức, thu hút bạn đọc và du khách trong, ngoài nước. Xu hướng du lịch gắn với sách đang manh nha hình thành như cách giới trẻ đến đây mua sách và trải nghiệm một phần bản sắc văn hóa đô thị.

Không khí trải nghiệm, tương tác từ các buổi tọa đàm, triển lãm sách… khiến nơi đây trở thành một hệ sinh thái văn hóa cộng đồng năng động. TS Hậu so sánh Đường sách TP.HCM với bờ sông Seine (Pháp), nơi mà các sạp sách được yêu thích và văn hóa đọc phát triển sinh động giữa nhịp sống đô thị, gắn với ký ức, thói quen thường nhật của người dân.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng cảnh báo nguy cơ thương mại hóa lấn át giá trị văn hóa gốc. “Cái gì mà cộng đồng duy trì được thì mới trở thành bản sắc. Nếu chỉ chăm chăm vào lợi ích nhất thời, không gian văn hóa sẽ mất đi giá trị cốt lõi”, bà nhấn mạnh.

Gần 10 năm hoạt động, Đường sách TP.HCM đang bước vào giai đoạn mới. Giờ đây, giới trẻ xem việc ghé Đường sách là một phần của hành trình khám phá thành phố tương tự các điểm du lịch như chợ Bến Thành hay phố đi bộ Nguyễn Huệ. Câu chuyện không còn là “bán được bao nhiêu bản sách”, mà là giữ được bao nhiêu người đọc quay lại, bao nhiêu cộng đồng được tạo dựng từ sách.

Hướng phát triển bền vững cho thành phố

Đường sách TP.HCM không chỉ là mô hình thành công về văn hóa cộng đồng, mà còn phản ánh tư duy phát triển đô thị đặt con người và tri thức vào trung tâm.

Theo ông Lê Hoàng, Giám đốc Công ty Đường sách TP.HCM, thách thức hiện nay không chỉ là bán được bao nhiêu bản sách, mà là giữ chân được bao nhiêu người đọc quay lại. Không gian này đang chuyển mình thành một hệ sinh thái tri thức, nơi sách là “cốt tủy” và các hoạt động bổ trợ như cà phê, sự kiện đóng vai trò tạo sinh khí văn hóa.

Góc nhìn này phù hợp với tinh thần của Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I (nhiệm kỳ 2025-2030). Dự thảo nhấn mạnh đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào lĩnh vực văn hóa - xã hội, trong đó công nghiệp văn hóa, xuất bản và phát triển văn hóa đọc là trụ cột.

Thành phố cũng đang hướng đến hình ảnh là trung tâm công nghiệp văn hóa và sáng tạo của cả nước, nơi kết nối văn hóa với du lịch, giáo dục và kinh tế đêm. Việc xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa từ thành phố đến cơ sở, cùng các đề án phát triển xuất bản, thúc đẩy văn hóa đọc được kỳ vọng sẽ tạo đòn bẩy bền vững cho những không gian như Đường sách.

Không gian này còn đóng vai trò trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng “con người TP.HCM chân - thiện - mỹ” như Dự thảo đề ra. Khi người dân có nơi để tiếp cận tri thức, tương tác cộng đồng và duy trì thói quen đọc, giá trị văn hóa không chỉ được gìn giữ mà còn lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống đô thị.

Nhìn rộng ra, những gì Đường sách đang làm không đơn thuần là thành công của một mô hình văn hóa công cộng. Đó là minh chứng cho hướng phát triển văn hóa đô thị gắn liền với bản sắc, đổi mới và hội nhập - yếu tố nền tảng để TP.HCM hiện thực hóa tầm nhìn trở thành siêu đô thị quốc tế mang đậm dấu ấn tri thức và văn hóa.



Thấy gì từ vụ biển hiệu 'Chợ Nga' giữa khu vực 'Km 0' của TP.HCM?

 

Việc treo biển hiệu “Chợ Nga” tại tòa nhà số 125 Hai Bà Trưng (phường Sài Gòn, TP.HCM), vị trí tiếp giáp Bưu điện Trung tâm TP.HCM và Đường Sách Nguyễn Văn Bình, tạo nên nhiều ý kiến trái chiều. Sự xuất hiện của biển hiệu thương mại nổi bật trong khu vực vốn được xem là không gian văn hóa trung tâm khiến dư luận đặt câu hỏi nên ứng xử như thế nào với những vùng lõi di sản của đô thị?

Không gian quanh Bưu điện TP.HCM, bao gồm Đường sách Nguyễn Văn Bình, Nhà thờ Đức Bà và nhiều công trình mang tính biểu tượng được xem là “vùng lõi di sản văn hóa” của đô thị Sài Gòn. Dù đúng quy trình pháp lý, hoạt động thương mại chen vào khu vực này vẫn làm dấy lên lo ngại.


Biển hiệu "Chợ Nga" nhìn từ địa chỉ số 125 Hai Bà Trưng (phường Sài Gòn, TP.HCM). Ảnh: Đỗ Khang.

Không để thương mại lấn át văn hóa

TS Nguyễn Thị Hậu, chuyên gia nghiên cứu về di sản văn hóa đô thị - tác giả sách Đô Thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cổ học và bảo tồn di sản, nhận định: “Tòa nhà Bưu điện hiện đã nằm trong diện kiểm kê di tích, đồng nghĩa với việc không gian bao quanh phải được ứng xử như một di sản. Dưới góc độ pháp lý, việc đưa thương mại không phù hợp vào không gian ấy là sai. Về mặt tình cảm, đó là sự bất nhẫn với nỗ lực gìn giữ một vùng ký ức đô thị”.

Dưới góc độ nghiên cứu di sản đô thị, TS Nguyễn Thị Hậu nhận định sự việc cho thấy khoảng trống trong cách ứng xử với vùng lõi văn hóa đô thị. Bà cho rằng không thể tách biệt giữa “mặt trước là Bưu điện, mặt sau là nhà của doanh nghiệp khác”. Di sản không thể chia lô, xẻ phần để ứng xử khác nhau.

“Không gian di sản, văn hóa là không gian toàn vẹn về kiến trúc, công năng và ký ức. Việc phân mảnh trong quản lý để đơn vị này làm một kiểu, đơn vị khác làm kiểu khác sẽ khiến bản sắc bị rạn nứt và mất dần. Cần nhìn chung một hướng là bảo vệ cả không gian di sản, văn hóa chứ không chỉ bản thân kiến trúc, di tích đơn lẻ”, TS Nguyễn Thị Hậu nhấn mạnh.



Khu vực tòa nhà Bưu điện Trung tâm TP.HCM, Nhà thờ Đức Bà... được xem là "vùng lõi di sản văn hóa" của thành phố, theo TS Nguyễn Thị Hậu, ẢnhLinh Huỳnh.

Tại cuộc họp do Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM chủ trì, đại diện Sở, Hội Di sản Văn hóa TP.HCM, Hội Kiến trúc sư TP.HCM đều đồng tình vấn đề nằm ở câu chuyện hoạt động thương mại không hài hòa với cảnh quan văn hóa.

Bà Lê Tú Cẩm, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa TP.HCM, cho rằng không gian quanh Bưu điện là nơi người dân “mặc định” là vùng của thông tin và truyền thông lẫn văn hóa. “Không phải người ta phản đối vì một cái tên, mà vì cảm giác không gian quen thuộc đang bị thay đổi. Đây không chỉ là chuyện của một tòa nhà, mà là cả khu vực di sản liền mạch quanh Nhà thờ Đức Bà, UBND phường Sài Gòn, Đường sách Nguyễn Văn Bình…”, bà Lê Tú Cẩm nhận xét.

Ở góc độ kiến trúc, ông Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư TP.HCM, xác nhận công trình đã được cấp phép và phương án xây dựng từng yêu cầu phải đảm bảo khoảng lùi, kiến trúc phù hợp để “tôn lên” công trình văn hóa.

Tuy vậy, ông cho rằng “điều gây dư luận lần này là việc treo bảng ‘Chợ Nga’ với thiết kế thị giác đậm nét thương mại ngay cạnh một công trình mang tính biểu tượng cao”. Ông đề xuất cần xem xét lại cách đặt tên, thiết kế và truyền thông sao cho hài hòa với không gian kiến trúc lân cận.

Cần cơ chế bảo vệ vùng lõi văn hóa đô thị

Sự việc liên quan đến biển hiệu "Chợ Nga" cho thấy khoảng trống trong cơ chế quản lý, quy hoạch và định danh không gian văn hóa trong đô thị, theo TS Nguyễn Thị Hậu. Nhà nghiên cứu nhìn nhận: “Không gian văn hóa rất mong manh và dễ bị phá vỡ. Trong khi đó, không gian thương mại có thể được đặt ở bất cứ đâu. Vì vậy, cần giữ gìn những vùng lõi có giá trị biểu tượng như khu trung tâm TP.HCM”.

Từ năm 2010, TS Hậu đã nêu ra khái niệm “vùng lõi di sản văn hóa”, chỉ những khu vực từ Lê Duẩn đến Bến Bạch Đằng, từ Hai Bà Trưng đến Hàm Nghi. Đây là nơi tập trung những công trình kiến trúc và cảnh quan đã tạo nên ký ức đô thị đặc trưng của TP.HCM. Việc phát triển tại khu vực này, theo bà, không thể theo lối ngắn hạn, chạy theo lợi nhuận ngay tức thì.

“Chúng ta cần phát triển kinh tế di sản như một con đường bền vững. Đừng nghĩ rằng bảo tồn là làm chậm phát triển. Ngược lại, nó là một dạng phát triển đặc biệt”, bà nói thêm.

Nhà nghiên cứu cho rằng thay vì đưa vào một không gian thương mại đại trà, TP.HCM có thể biến phần phía sau Bưu điện thành một bảo tàng bưu chính hoặc bảo tàng thông tin liên lạc vừa đúng chức năng, vừa tạo nguồn thu lâu dài.

 


Một số tác phẩm của TS Nguyễn Thị Hậu về di sản đô thị. Ảnh: Quỳnh My.

Về mặt chính sách, cả ba chuyên gia nhấn mạnh cần có cơ chế pháp lý để bảo vệ không chỉ các công trình đã xếp hạng, mà cả những không gian đang kiểm kê di tích hoặc được cộng đồng mặc định là có giá trị. Họ đề xuất thành phố nên quy hoạch riêng cho vùng lõi văn hóa, giới hạn chiều cao, màu sắc quảng cáo, vật liệu xây dựng và loại hình kinh doanh.

“Không gian văn hóa không cần quá cao siêu, mà cần được cộng đồng giữ gìn, sử dụng đúng chức năng. Nếu chỉ nghĩ ngắn hạn, cho thuê thương mại thì có thể được tiền ngay, nhưng thế hệ sau sẽ không còn gì để thụ hưởng. Đó là điều đáng tiếc”, TS Nguyễn Thị Hậu nhấn mạnh.

Trả lời Tri Thức - Znews trong cuộc họp báo về tình hình kinh tế - xã hội TP.HCM chiều 9/10, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết đã chủ động làm việc với các bên liên quan như Đường sách Nguyễn Văn Bình, Sở Công Thương… để tìm hướng xử lý phù hợp.

“Dù các hoạt động kinh doanh không bị cấm theo quy định pháp luật thì vẫn được hoạt động bình thường nhưng phải gắn với việc hài hòa giữa kinh doanh và việc phát triển các dịch vụ văn hóa, không gian văn hóa. Điều này bao gồm cả không gian di tích ở khu vực vùng lõi như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố và các khu vực di tích xung quanh. Sở sẽ làm việc với các đơn vị để có thông tin sớm về việc hoạt động kinh doanh tại khu vực này có được phép hay không”, đại diện Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết.

 https://znews.vn/thay-gi-tu-vu-bien-hieu-cho-nga-giua-khu-vuc-km-0-cua-tphcm-post1592360.html?gidzl=4uyALMOxo5SJbGbLOINAKHQH0rLy8iHIMSG517Xyp5K4n5a39I6V3rIIMLud9P5V0iG5M6D4WF0rPJRFLm&fbclid=IwY2xjawNbyaRleHRuA2FlbQIxMQABHhSWIEmVdiO1RfTY2HtyruEkAte1Qn0yJIebPgGkGmFGvmEJ2Hwe1EiDl5fp_aem_kJEaEKYAaqjum6Kv1drJ7A

Giúp trước khi có nạn

Hàng năm tôi thường đi công tác ở miền Bắc, miền Trung vào “mùa bão lũ” nên trước khi đi tôi luôn chú ý thông tin thời tiết. Có thể nói trên các phương tiện thông tin hiện nay việc cảnh báo tốc độ, mức độ thiên tai khá kịp thời, người dân có thêm thông tin để phòng chống. Vậy nhưng những năm gần đây hậu quả của thiên tai bão lũ ngày càng nặng nề, thiệt hại về người và của rất to lớn.

Những ngày tháng 9 này bão Bualoi gây nhiều thiệt hại ở miền Bắc, miền Trung... Thật đau lòng vì những tai họa đã từng xảy ra lại tiếp tục xảy ra như lũ quét, nước dâng nhanh do mưa lớn... không chỉ ở vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi mà ngay ở các thành phố lớn như Hà Nội đã chịu cảnh ngập lụt chưa từng có.

Ai cũng biết rằng thiên tai không thể hoàn toàn tránh được, nhiều hiện tượng thiên nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, nhất là biến đổi khí hậu đang ngày càng phức tạp. Vấn đề đặt ra là làm sao giảm thiểu tối đa thiệt hại, đảm bảo an toàn cho con người và khắc phục thiệt hại khi thiên tai ập đến. Một câu hỏi đặt ra trong tôi là tại sao khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, cảnh báo sớm và kịp thời mà hậu quả thiên tai vẫn khó lường, thiệt hại về người và của vẫn nặng nề?

Sau các trận bão vừa qua, nhiều nơi chính quyền địa phương ứng phó khá nhanh, phối hợp nhân dân, huy động lực lượng khắc phục sạt lở, thông tuyến, hỗ trợ dân. Nhà nước đã khẩn trương phân bổ ngân sách hỗ trợ các tỉnh chịu ảnh hưởng. Người dân vùng thường xuyên chịu bão lũ năm sau lại thiên tai như năm trước nên nguồn lực vật chất có hạn, không đủ điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ lâu dài như “xây nhà chống lũ”, không có nguồn dự trữ lương thực thực phẩm, nước uống thuốc men trước khi bão lũ ập đến. Việc sơ tán người già, trẻ em hay các loại gia súc gia cầm còn mang tính tự phát nên hầu như không có hiệu quả. Do đó, việc ra tay của các cấp chính quyền thật sự là cần thiết cho dân trong cơn hoạn nạn.

Thành ngữ có câu “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”, thậm chí là “lá rách đùm lá nát”, thể hiện đạo lý truyền thống của nhân dân ta, đề cao tinh thần chia sẻ, tương trợ, nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Thông điệp ngàn đời nay của dân tộc là sống có tình, có nghĩa, biết đùm bọc lẫn nhau. Đây cũng là cốt lõi của tinh thần đoàn kết dân tộc.

Nhưng bối cảnh xã hội của những câu thành ngữ này là từ hàng trăm năm trước, trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu hầu như không có sự cảnh báo hay thông báo kịp thời về thiên tai, ngoài một số kinh nghiệm dân gian. Vì vậy cách ứng xử như trên là nhấn mạnh phản ứng trước tình huống đã xảy ra, hành động cứu trợ, chia sẻ khẩn cấp khi sự cố đã hiện diện. Những ứng xử phản ánh đạo lý nhân văn nhưng cũng cho thấy tư duy ứng phó với “sự đã rồi” rất phổ biến: chờ có nạn thì mới lo giúp nhau.

Thực tế sau bất kỳ một thiên tai hay tai nạn nào, rất nhanh chóng, người dân ở nhiều nơi đã tự nguyện đóng góp lương thực, áo quần, tiền bạc, công sức cứu trợ. Nhà nước, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, Hội chữ thập đỏ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp… cũng nhanh chóng “vào cuộc” tổ chức hỗ trợ khẩn cấp, phân bổ nguồn cứu trợ và giúp người dân tái thiết cuộc sống.

Nếu “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách” là lời nhắc về nghĩa tình khi đã xảy ra hoạn nạn, thì bài học hôm nay cần bổ sung một cách nghĩ mới: “Chị chưa ngã, em đã đỡ tay; lá chưa rách, lá lành đã chắp thêm”. Tức là biến tinh thần tương trợ thành trách nhiệm phòng ngừa, chuẩn bị, bảo vệ lẫn nhau từ sớm, để hạn chế tối đa cảnh ngã – rách năm nào cũng tái diễn.

Đó chính là trách nhiệm của các chính quyền trong việc xây dựng và thực thi tốt hơn chính sách phòng ngừa rủi ro thiên tai, tai nạn; Hỗ trợ sinh kế bền vững về nguồn sống, nơi cư trú, không để người dân nghèo, yếu thế sống trong vùng dễ bị thiên tai mà không có phương án thay thế. Đó là giáo dục ý thức phòng ngừa, kỹ năng ứng phó thiên tai, biết sơ tán, biết bảo vệ tài sản trước khi bão lũ đến. Là tinh thần và hành động chia sẻ sớm: tổ chức cứu giúp, hỗ trợ chuẩn bị, di dời người dân trong vùng nguy hiểm trước khi xảy ra điều đáng tiếc. Là thay đổi tư duy để có hành động dự phòng thường trực, “giúp trước khi có nạn” thay vì chỉ cứu sau nạn.

Thiên tai luôn làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng, của từng người với đồng bào mình. Nhưng cũng phản ánh trình độ tư duy và tổ chức điều hành đối phó với thiên tai của chính quyền các cấp, cao hơn là trách nhiệm đối với nhân dân và xã hội. Biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp thì càng đòi hỏi trình độ và trách nhiệm đó lớn hơn.

Báo Tuổi trẻ ngày 4/10/2025



Tượng đài tưởng niệm nạn nhân COVID-19: Nhớ quá khứ, bài học hiện tại, hướng về tương lai

https://tuoitre.vn/tuong-dai-tuong-niem-nan-nhan-covid-19-nho-qua-khu-bai-hoc-hien-tai-huong-ve-tuong-lai-20251021224045624.htm?fbclid=IwY2x...