Di sản khảo cổ - đô thị TP. HCM

 

TP. Hồ Chí Minh – đô thị năng động bậc nhất Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội và bảo tồn di sản văn hóa. Từ góc độ khảo cổ học đô thị, thành phố này chứa đựng nhiều tầng lớp di sản quý giá, là nơi hội tụ văn hóa Việt – Hoa – Khmer – Pháp – Mỹ và một số cộng đồng tộc người, ngoại kiều khác. Nhiều lớp di sản khảo cổ – đô thị đã được phát hiện có niên đại từ thời tiền sử đến thế kỷ 17, 18 và lớp di sản đô thị thế kỷ 19 – 20.
Từ bốn đặc trưng của đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh: 1/Đô thị sông nước và hướng biển; 2/Trung tâm kinh tế và dịch vụ, công nghiệp sớm; 3/Đa dạng văn hoá và đa dạng cộng đồng, lối sống thị dân phát triển; 4/Đô thị kiểu phương Tây trong quy hoạch, kiến trúc và hạ tầng đô thị đã được thể hiện trong hệ thống Di sản văn hóa của thành phố.
Một nghiên cứu của tôi đã nhận diện 9 loại hình di sản văn hoá vật thể của đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh , bao gồm:
1/ Di tích khảo cổ học dưới và trên mặt đất
2/Cảnh quan đô thị
3/Công trình kiến trúc nghệ thuật
4/Nhà ở truyền thống và biệt thự
5/Công trình tín ngưỡng - tôn giáo
6/Hạ tầng đô thị và công nghiệp
7/Di tích mộ táng, lăng mộ
8/Di tích thành lũy quân sự
9/Quần thể di tích Chợ Lớn
Đồng thời những di sản phi vật thể phản ánh mọi mặt sinh hoạt cộng đồng và lối sống đô thị có thể được tập hợp trong 5 nhóm loại hình , như 1/Lễ hội và sự kiện đô thị, 2/Tập quán, nghi lễ và sinh hoạt cộng đồng, 3/Nghệ thuật trình diễn, 4/Tri thức dân gian và nghề thủ công đô thị, 5/ Ngôn ngữ truyền khẩu và ký ức đô thị.
Tuy nhiên, do nhận thức chưa đúng về giá trị di sản đô thị, cơ chế pháp lý và mô hình quản lý chưa thích hợp với sự phát triển mới, công tác quản lý còn phân tán giữa nhiều cơ quan, thiếu cơ sở dữ liệu đồng bộ và khung pháp lý riêng cho di sản và khảo cổ học đô thị. Vì vậy nhiều giá trị di sản đã và đang bị tổn thương hoặc mất mát vĩnh viễn trong quá trình đô thị hóa.
Thực trạng này không thể không nói đến vai trò của 4 nhân tố tác động đến di sản văn hóa:
Chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước, nhà đầu tư đang giữ vai trò quyết định; Nhà nghiên cứu, chuyên môn và cộng đồng có vai trò quan trọng!
Cuối cùng, tự hào về vai trò kinh tế quan trọng của TPHCM và tập trung cho vai trò đó, nhưng cũng đừng quên vai trò và giá trị văn hóa của thành phố. Khi chúng ta không coi trọng di sản của chính mình thì mong gì người khác tôn trọng quá khứ của mình?!

ĐÓNG GÓP Ý KIẾN CHO XÂY DỰNG CÔNG VIÊN CÓ CÔNG TRÌNH TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN COVID-19

 Ý kiến của mình tại cuộc tọa đàm ngày 6/11/2025 tại Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM

“Công trình tưởng niệm đại dịch COVID-19 – TP. Hồ Chí Minh” nên tiếp cận với mục đích, ý nghĩa, tầm nhìn sau:
1. Tiếp cận: từ góc nhìn của nhân dân, ký ức của nhân dân: đau thương và tình nghĩa: Tình người Sài Gòn mạnh hơn đại dịch. Đau thương nhưng không bi luỵ - tính cách người Sài Gòn, Nam bộ.
2. Mục đích: Tưởng nhớ những người đã mất do COVID-19. Tri ân y bác sĩ, tình nguyện viên, lực lượng tuyến đầu, người dân đã hy sinh và đóng góp.
3. Ý nghĩa: Biểu tượng của “thành phố/nhân dân kiên cường – nhân ái – hồi sinh”. Dũng cảm vượt qua, Thành phố HCM hồi sinh.
4. Tầm nhìn: Di sản ký ức đô thị (Urban Memory Heritage). Tạo thành “địa điểm – di sản ký ức” gắn với một sự kiện thể hiện bản sắc con người và sức mạnh của TP. HCM.
5. Khu vực số 1 Lý Thái Tổ tích hợp 3 chức năng: công viên, tưởng niệm, di sản.
Tóm lại:
- Mong muốn có một công trình tưởng niệm một sự kiện – những con người
- Tập trung vào mục đích chính của công trình để thể hiện cao nhất ý nghĩa của sự kiện. Vì mọi ý nghĩa mục đích hoà quyện với nhau. Những mục đích ý nghĩa sự kiện khác sẽ thể hiện ở Nhà lưu niệm cạnh đó.
- Thể hiện giản dị, cảm xúc của từng con người khi đến đây, cộng hưởng thành cảm xúc của cộng đồng, từ người dân đến chính quyền, từ những gia đình nạn nhân đến những người có chức trách. Một mức độ nào đấy cần là sự CÁM ƠN NHÂN DÂN đã cùng chính quyền vượt qua đại dịch.
- Tôi tin tài năng của KTS TP miễn là mục tiêu rõ ràng, cụ thể, không nên gói ghém quá nhiều ý tưởng sẽ rất rối và mờ nhạt ý tưởng chính.
- Tôi lo ngại việc mở đường có thể cắt xén công viên, chặt hạ cây xanh trong khu vực, làm mất tính toàn vẹn của một cảnh quan đô thị được quy hoạch dù từ của một gia đình và từ trước 1975 nhưng khá hoàn thiện.
- Kiểm kê đánh giá các biệt thự, khẩn trương trùng tu bảo tồn và xác định chức năng sử dụng mới cho từng biệt thự.

@Cám ơn báo Pháp luật TPHCM đã phỏng vấn, tạo cơ hội cho mình nói rõ hơn những ý tưởng về Công viên và công trình Tưởng niệm sự kiện Covid -19

Biểu tượng phòng chống dịch COVID-19: Chuyên gia nói gì ?

Còn ai nhớ 5K này không:)


Dạy sử thời hậu chiến: làm thế nào để trưởng thành từ bài học lịch sử?

  Góc Nhìn Phát Triển | 04/11/2013 Nghiêm Hoa

http://dienngon.vn/Blog/Article/day-su-thoi-hau-chien-lam-the-nao-de-truong-thanh-tu-bai-hoc-lich-su

Chiến tranh, xung đột vũ trang và bạo lực là hoàn cảnh làm nảy sinh những vi phạm nhân quyền trắng trợn và tràn lan nhất. Di sản của một cuộc chiến cần được nhìn nhận như thế nào để đau thương không lặp lại và những vi phạm nhân quyền ở quy mô lớn như vậy không tái diễn? Với tư cách là một môn khoa học xã hội nhân văn, việc viết sách giáo khoa sử và dạy sử ở một xã hội hậu chiến cần được cân nhắc như thế nào từ góc độ nhân quyền?

“Việc dạy sử cần hướng đến thúc đẩy tư duy phê phán, học hỏi và tranh luận dựa trên lý tính, nhấn mạnh tính phức hợp của lịch sử, việc dạy sử cần làm nảy sinh cách tiếp cận mang tính so sánh và đa diện. Việc dạy sử không nên đặt ra mục đích đắp bồi chủ nghĩa yêu nước, tô đậm bản sắc dân tộc hay gò khuôn cho lớp trẻ, dù là theo lý tưởng chính thống hay một tôn giáo đang chiếm ưu thế”.

Đó là phát biểu của bà Farida Shaheed, Báo cáo viên Đặc biệt về các quyền con người trong lĩnh vực văn hóa trước Đại hội đồng Liên Hợp quốc về việc viết sách giáo khoa môn sử và dạy sử ở những xã hội thời kỳ hậu xung đột và hậu chiến. Nhân dịp bà Shaheed sẽ sang thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Nhà nước từ ngày 18 đến 29 tháng 11 năm 2013, bài viết này thảo luận một số vấn đề xung quanh tuyên bố trên đây.

Làm gì với vết thương hậu xung đột?

Điều gì sẽ xảy ra với con người cá nhân trong một cuộc xung đột? Cuộc xung đột, ở quy mô nhỏ, có thể là mối mâu thuẫn cá nhân với một người khác. Ở quy mô lớn, xung đột có thể là mâu thuẫn giữa hai hoặc nhiều tập hợp xã hội, hai tôn giáo, hai quốc gia. Dạng thấp nhất của một cuộc xung đột có thể là sự không dung hòa giữa hai cách suy nghĩ hoặc hành xử khác nhau. Dạng xung đột cao nhất với mức độ bạo lực cao nhất là chiến tranh. Ở bất kỳ cấp độ và quy mô nào, hậu quả trực tiếp của xung đột bạo lực với cá nhân hay với một nhóm, dù ở bên nào, là sự tổn thương mất mát.

Câu hỏi đặt ra với những thế hệ bước ra khỏi cuộc chiến là, từ những nỗi đau thương của mình, họ muốn để lại thông điệp gì cho thế hệ tiếp theo. Cách thức đối diện với vết thương hậu xung đột sẽ đè nặng và phá hủy nhân cách của một cá nhân hoặc một dân tộc, hay sẽ giúp một họ đứng lên mạnh mẽ như phượng hoàng bay lên từ tro tàn? Quan trọng hơn, phượng hoàng ấy sẽ khiến xung quanh kinh hoàng hay thán phục, sẽ giúp viết nên một trang chỉ lặp lại và kéo dài thêm nỗi đau, hay sẽ tiến bộ và nhân văn hơn? Người Đức mất đến hai lần thua cuộc đại chiến thế giới để tự học và khẳng định tư thế một nước lớn với những giá trị vững vàng. Người Nhật, từ bên thua cuộc trong Thế chiến thứ Hai, đã viết cho mình một chương lịch sử mới khiến thế giới kính nể.

Cách thức một cá nhân hay một dân tộc tự nhận thức về mình và nhận thức về thế giới xung quanh khi họ bước ra khỏi cuộc xung đột mang tính bạo lực, dù ở tư cách bên thắng cuộc hay bên thua cuộc, sẽ định hình vận mệnh tiếp theo của cá nhân hay dân tộc đó.

Trách nhiệm lịch sử của thế hệ sau là truyền bá sự thù địch hay xây đắp hòa bình?

Từ một trải nghiệm mất mát có thể sinh ra nhiều tâm lý khác nhau. Sự thù hận là một hệ quả mang tính bản năng của mất mát. Sự mất mát và tâm lý hơn thua chính là động lực nuôi dưỡng những mối thù được truyền kiếp trong lịch sử của một dòng tộc, một tôn giáo, một nhóm người hay một dân tộc. Điều đó chẳng khác gì việc giữ lại một hạt giống bạo lực chỉ chờ có dịp sẽ nảy mầm sinh sôi. Chỉ khi nào chúng ta không còn chất lên vai thế hệ sau gánh nặng thù địch kết quả từ một cuộc chiến, chúng ta mới có thể đoạn tuyệt khỏi thời kỳ tăm tối của lịch sử loài người mà kẻ thua trận và cả con cháu của họ sẽ phải làm nô lệ.

Thế hệ sau, dù thừa hưởng di sản là nỗi đau của một cuộc chiến, không cần và không đáng phải mang trên lưng mình ý thức cừu địch và nhiệm vụ trả thù. Romeo và Juliet không cần và không đáng phải đeo một mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ mà họ vốn chẳng trực tiếp liên quan. Tuổi trẻ và trường học là mảnh đất màu mỡ để gieo nhiều loại hạt giống khác nhau. Vì vậy cần chọn hạt giống của tư duy khoa học, lòng vị tha và tình bác ái thay vì hạt giống thù hận, chia rẽ và bạo lực.  Sự thù hận không chỉ nảy sinh từ vết thương bạo lực của tất cả các bên xung đột. Tâm lý vẻ vang với chiến thắng cũng có thể làm nảy sinh thù hận.

Trong một cuộc chiến, người tham chiến cần được coi là chiến binh chuyên nghiệp mà vinh quang là của cả người thắng cuộc lẫn người ngã xuống. Bên thắng cuộc được hưởng vinh quang, nhưng vinh quang ấy không thể thiếu vẻ đẹp mã thượng thể hiện lòng tôn trọng với đối thủ thua cuộc. Bên thua cuộc cũng có vinh quang của họ bởi cái giá xương máu họ đã phải trả cho một cuộc chiến. Có nghĩa là khi cuộc chiến kết thúc, người ngã xuống thương vong hoặc bên thua cuộc cần được đối xử như những con người với đầy đủ phẩm giá của họ.

Không phải ngẫu nhiên mà ngày nay nhân loại công nhận đây là một nguyên tắc nền tảng của Luật Chiến tranh – hay các Công ước Geneva trong Luật Nhân đạo quốc tế. Nguyên tắc này giảm thiểu sự tàn bạo trong một hoàn cảnh tàn bạo nhất, và là một nỗ lực để không gieo những hạt mầm bạo lực. Việc dạy và học sử ở nhà trường cũng cần tôn trọng và thực hành nguyên tắc nhân bản này.

Môn sử cần giúp nhận thức trưởng thành cả về lý tính và nhân tính

Cả tâm lý thù hận do mất mát và tâm lý vẻ vang với chiến thắng đều che mờ khả năng lý tính để nhận thức sự việc một cách khách quan. Ngược lại, vận dụng lý tính và thúc đẩy việc nhận thức sự việc một cách khách quan, dựa trên các bằng chứng khoa học và việc soi sáng những bằng chứng ấy bằng tư duy độc lập và biện chứng cho phép chúng ta tiến gần hơn đến thực tế. Những diễn biến trong lịch sử và đặc biệt là trong một cuộc xung đột là vô cùng phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều bên khác nhau, nhiều luồng tư tưởng, nhiều lợi ích khác nhau, nhiều mối quan hệ quyền lực và cả những ý đồ chính trị khác nhau.

Mỗi chứng nhân của lịch sử có thể mô tả sự kiện họ đã liên đới theo cách nhìn khác nhau, xuất phát từ vai trò, quan điểm và ý thức hệ của họ, từ đó tạo ra một phiên bản lịch sử của họ. Bởi thế không có một phiên bản mô tả lịch sử nào có thể coi là trọn vẹn và duy nhất. Cũng như không có sự thực nào là hoàn hảo do nhận thức của con người là giới hạn, và do bản chất phức tạp của cả thực tại khách quan lẫn quan điểm và phẩm chất của con người.

Bởi thế, bản thân những mô tả về lịch sử cũng đa dạng, mà chúng ta chỉ có thể biết về một sự kiện một cách bao quát hơn bằng cách tập hợp nhiều góc nhìn, nhiều phiên bản, nhiều bằng chứng. Phủ nhận một góc nhìn khác cũng chính là phủ nhận một cơ hội tiến gần hơn đến sự thật. Chính vì thế, thúc đẩy những tranh luận dựa trên bằng chứng khoa học chứ không phải bản năng trả thù, chấp nhận tính phức hợp và đa nguyên của lịch sử chứ không phải những thông tin một chiều nặng tính tuyên truyền sẽ giúp chúng ta tiến gần hơn đến tri thức.

Môn sử trong nhà trường trước hết cần đóng vai trò là một môn khoa học giúp người học phát triển về khả năng tư duy để nhận thức về bản thân và thế giới, từ đó lựa chọn số mệnh của mình một cách ngôn khoan hơn. Môn học ấy cũng cần bồi đắp tinh thần nhân văn và sự khoan dung để giúp thế hệ sau xung đột biết cách tránh được xung đột và mất mát, thay vì biến họ thành những hạt giống mới của bạo lực, thành phương tiện truyền đạt hoặc công cụ  xương máu cho các chủ nghĩa hoặc các ý thức hệ.

Với tư cách là một khoa học nhân văn, việc dạy và học môn sử ở xã hội hậu xung đột có vai trò phá vỡ vòng xoáy bạo lực để tránh sự lặp lại những vi phạm nhân quyền tràn lan trong chiến tranh: Ký ức và trải nghiệm được ghi nhận và truyền bá không phải là những thông điệp bạo lực, mà phải tạo điều kiện cho sự nhận diện bạo lực và thức tỉnh khỏi bạo lực.  Những bài học lịch sử không nên truyền đạt sự thù hận địch – ta, bởi nó cần sự khách quan từ việc công nhận tính đa diện và đa nguyên của một cuộc xung đột.

Nhìn lại một cuộc chiến có những trận đánh được sắp đặt như thế nào là câu hỏi của khoa học quân sự. Những quan hệ quyền lực diễn biến ra sao trong xung đột như thế nào là câu hỏi của khoa học chính trị. Truyền đạt vẻ đẹp của sự hy sinh, lòng trung thành, tình yêu nước hay ghi tạc bản sắc dân tộc là thông điệp của thi ca và nghệ thuật. Còn lịch sử, như một ngành khoa học và người dạy sử như một người hướng dẫn phát triển tư duy cần làm nhiệm vụ khai sáng để giúp người học nhận thức rõ ràng hơn về thế giới trong quá khứ, và hướng đến một tương lai chung sống hòa bình.

Bài này mình copy về FB lâu rồi, link bây giờ cũ không truy cập được.



VÌ DÂN – ĐẠO CỦA NGƯỜI LÀM QUAN


Tôi vẫn thường qua lại con đường Lê Văn Duyệt (TP. Hồ Chí Minh). Trên con đường này lúc nào cũng tấp nập người đi làm nơi công sở, người buôn gánh bán bưng, công nhân tất bật đến công trình, trẻ em đến trường… Mỗi khuôn mặt, mỗi dáng đi, mỗi âm thanh trong đời sống hôm nay đều là một khoảnh khắc giản dị, mộc mạc, như từng diễn ra từ hàng trăm năm trước ở đây. Vùng đất “cố cựu” này có công trình Lăng Ông quen thuộc, mỗi khi đi qua tôi luôn cảm thấy gần gũi mà linh thiêng – bởi vì Lăng Ông là nơi thờ phụng một vị đại thần, nơi thể hiện tình cảm bao đời của người Gia Định với vị đại quan có công lớn với vùng đất này, với buổi đầu phát triển đô thị này.

Nam bộ là một vùng đất mà phải trải qua bao đời, bao mồ hôi nước mắt của tiền nhân mới trở nên rộng lớn và trù phú. Hàng trăm năm lịch sử với nhiều biến cố lớn lao, người dân nơi đây luôn nhắc nhớ và kính trọng những ai thực sự vì dân. Người ta vẫn nói “Dân là gốc của nước” nhưng không dễ dàng để thật sự hiểu điều đó. Làm quan hiểu dân là khi biết nhận biết những mất mát đau thương của người dân sau cơn binh lửa chiến tranh, lắng nghe tiếng thở dài người dân khi mùa màng thất bát, lúc thiên tai tàn phá, là nhận ra những mong muốn giản dị đời thường… Nếu không cảm, nhận, hiểu, biết tất cả từ một trái tim cùng nhịp đập với muôn trái tim dân thì chưa thể hiểu “Dân là gốc của nước”.

Người ta cũng nói “Quan nhất thời dân vạn đại”, người làm quan mà hành xử từ việc nhỏ hàng ngày đến công trình dời non lấp biển đều để cho dân được an cư lạc nghiệp, người đó sẽ được dân tin yêu cả khi đã “hết quan hoàn dân” - dân vạn đại còn là nghĩa đó! An dân là kế sâu rễ bền gốc muôn đời, người làm quan thực hành theo kế ấy thì không chỉ một đời mà nhiều đời sau vẫn được nhân dân truyền tụng.

Hơn hai trăm năm qua Lăng Ông vẫn ở đó, chứng kiến mọi đổi thay của Sài Gòn và cả vùng Gia Định xưa. Lăng Ông linh thiêng bởi người dân tin Đức Ông là vị đại quan thanh liêm chính trực, sống dân thì thác làm phúc thần phù hộ cho dân.

***

Giữa lúc mạng xã hội nổi lên vài tiếng nói lạc lõng bất thường và bất kính về danh thần Lê Văn Duyệt và những người cùng thời, thì một tin vui đến với người dân thành phố: Thường trực Thành ủy TP. HCM vừa thống nhất chủ trương ưu tiên sử dụng khu đất Bến Nhà Rồng và khu đất Nhà khách Chính phủ – hai khu đất “vàng” nhưng không sử dụng từ nhiều năm nay – để xây dựng công viên và các công trình văn hóa – nghệ thuật phục vụ cộng đồng.

Quyết định này là một hướng đi mới, thể hiện tinh thần vì dân và tầm nhìn phát triển đô thị bền vững của TP. HCM. Bao nhiêu năm nay những “khu đất vàng” từ trung tâm thành phố đến các cơ sở công nghiệp cũ, bến cảng ven sông đều trở thành những toà nhà cao tầng “hiện đại”. Thành phố rộng ra, cao lên nhưng chen chúc chật chội hơn, khói bụi ô nhiễm, kẹt xe ngập nước cũng nhiều hơn. Đường Nguyễn Tất Thành ven bến Khánh Hội là một trong những con đường “khủng khiếp” với những ai phải qua lại hàng ngày. Từ khi khu vực cảng ở đây được giải toả, hàng chục ngàn met vuông bị bỏ không trong khi con đường bên cạnh mỗi ngày hàng chục ngàn lượt người qua lại phải nhích dần từng bước.

Đón nhận chủ trương mới của thành phố, những người dân đã quen chỉ nhìn thấy “hình bóng” mình phản chiếu qua những lớp kính của cao ốc chung cư mọc lên như nấm, che khuất dòng sông che kín khoảng trời, bỗng nhận ra “vị trí trung tâm” của mình trong một quyết định hợp lòng người, nhận ra đôi chân của mình có thể được đứng trên những “khu đất kim cương”!

Khu vực cảng Sài Gòn sẽ dùng để mở rộng con đường, làm công viên bờ sông, nối liền di tích Bến Nhà Rồng lịch sử - một biểu tượng của thành phố. Nơi đây sẽ tổ chức những hoạt động văn hoá hiện đại mang tầm quốc tế, thể hiện trình độ và nguồn lực công nghiệp văn hoá của thành phố. Sẽ mang lại cho thế hệ trẻ và du khách cảm nhận về một thành phố không chỉ hiện đại mà còn có chiều sâu lịch sử và bề dày di sản.

Một khu đất khác bị bỏ hoang hàng chục năm nay sẽ trở thành một công viên. Đây là địa bàn đông dân cư, có vị trí thuận tiện về giao thông để người dân dễ dàng lui tới. Tại đó những căn biệt thự đã lâu không được sử dụng có thể sẽ trở thành các gallery, showroom trưng bày, trình diễn nghệ thuật, có công trình tưởng niệm người dân mất vì COVID-19 và bảo tàng để nhắc nhớ người ta nhớ về trận đại dịch kinh hoàng mà thành phố đã dũng cảm chịu đựng và vượt qua. Một mảng xanh hiếm hoi được “bảo tồn” sau quá nhiều mất mát cây xanh, công viên trên địa bàn thành phố.

TP. Hồ Chí Minh đang thay đổi ngày càng “vì con người”. Thành phố cần những công trình hiện đại nhưng cần hơn là sự đồng cảm giữa chính quyền và người dân khi cùng chung ý chí và hành động vì một cuộc sống ngày càng tốt đẹp. Tình cảm gắn bó của những con người đang góp sức lực xây dựng thành phố là tài sản quý giá nhất trong hành trình phát triển đến tương lai.

***

 Vì dân” không phải là khẩu hiệu mà cần được thể hiện từ những điều giản dị và cụ thể. Hiểu dân – gần dân – vì dân là đạo của “người làm quan”. Người dân mình luôn nhận biết và không bao giờ quên những người “vì dân”, từ một lời nói chân thành, một nghĩa cử nhỏ đến những công trình lớn lao. Một khi dân đã tin thì chẳng cần lời tuyên thệ nào, sự ủng hộ ấy tự nhiên như dòng nước từ nguồn, nuôi cả cây đời và cội nước. “Thương dân dân cúng dân thờ” cũng là “đạo làm dân” mà con dân vùng đất phía Nam đã thực hành từ nhiều đời nay...

Nếu mỗi bước đi về phía trước thành phố đều giữ được không gian xanh và cảnh quan sông nước, bồi đắp thêm ký ức đô thị, thì thành phố sẽ giữ gìn được bản sắc riêng: năng động, bao dung và đầy tình người. Thời gian trôi qua, những gì được dân lưu truyền chính là những giá trị nhân văn mà bất cứ thời thế nào cũng không thể làm thay đổi!

Nguyễn Thị Hậu - NGƯỜI ĐÔ tHỊ SỐ RA NGÀY 30/10/2025


 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lăng Ông (Bà Chiểu) 31.10.2025

 Thỉnh thoảng trên đường đi làm ghé qua thắp nhang. Một không gian yên tĩnh, sạch sẽ, tôn nghiêm mà gần gũi thân thiện. Ngày thường nhưng ở đây lúc nào cũng có người đến viếng.








































BẢN SẮC ĐÔ THỊ SÀI GÒN TRONG BỐI CẢNH NAM BỘ (trích phần đầu và cuối của một bài dài)

Nguyễn thị Hậu

Lời mở
Nam bộ nói chung và vùng đất Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn thường được gọi là “vùng đất mới”, “vùng đất có 300 năm lịch sử”. Không thể phủ nhận vai trò của lưu dân khai khẩn trong giai đoạn từ thế kỷ XVII, XVIII trở đi, tuy nhiên khoa học lịch sử và khảo cổ học cũng đã cho biết, nơi này từng có 1000 năm trước công nguyên với những cộng đồng dân cư thời tiền sử của văn hóa khảo cổ Đồng Nai, rồi từ đầu Công nguyên có nền văn minh Óc Eo của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ I đến thế kỷ VII. Do đó Nam bộ là “vùng đất mới” đối với những lớp người đến đây trong các giai đoạn về sau, còn bản thân nơi này có một quá trình lịch sử lâu dài, đa dạng về tộc người và văn hóa.
Cái nhìn về Nam bộ như một “vùng đất mới” tồn tại khá bền chặt trong giới nghiên cứu lịch sử và tư duy quản lý nhà nước, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội và cũng để lại hệ lụy trong việc cố gắng bảo tồn di sản và bản sắc văn hóa Sài Gòn – Nam bộ. Bởi vì với quan niệm vùng đất Nam bộ - Sài Gòn là “muộn”, là “mới”, lại liên quan khá nhiều đến thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn – vốn bị định kiến trong lịch sử - nên đã dẫn tới tâm lý không coi trọng những giá trị văn hóa (vật thể và phi vật thể) độc đáo, hình thành và tồn tại lâu bền ở đây. Đến nay, những di tích “Sài Gòn trăm năm” bị phá hủy gần hết do quá trình đô thị hóa qua nhiều thời kỳ, cũng như do nhận thức thiếu sót của chính quyền về giá trị của những di sản này từ sau khi đất nước hòa bình vào năm 1975.
Vì vậy, tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử - văn hóa một thành phố, một vùng đất chính là cách thiết thực giữ gìn di sản, trước hết vì đấy là tài sản văn hóa của cộng đồng. Giữ gìn di sản trước hết vì “người sống” chứ không phải chỉ vì bản thân di sản. Việc cố gắng bảo tồn những di tích lịch sử văn hóa của TP. Hồ Chí Minh hay các tỉnh Nam bộ là nhằm xây dựng xã hội hiện đại với không gian sống có chiều sâu ký ức. Sống trong không – thời gian đó con người sẽ giàu có hơn về mặt tinh thần. Bảo vệ di sản văn hóa là để con người sống tốt hơn cho hôm nay chứ không chỉ là bảo vệ một ý niệm nào đó của quá khứ dù đẹp đến đâu.
I. Vị thế địa – kinh tế - văn hóa của các đô thị Nam bộ
1.1 Dưới triều Nguyễn. Năm 1808, vua Gia Long nhà Nguyễn đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) và Hà Tiên.
Năm 1834 Vua Minh Mạng đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Đó là các tỉnh: Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn), Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa), Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông; Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long), An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc) và Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
Từ cuối thế kỷ XVII, năm 1698 chúa Nguyễn đã “lập phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên” thiết lập thôn xã phường ấp, khuyến khích dân cư khai khẩn đất hoang, định tô thuế, lập sổ đinh. Trước đó năm 1679 đã có những nhóm người Hoa “bài Thanh phục Minh” được chúa Nguyễn cho vào cư trú ở vùng đất phương Nam. Với kinh nghiệm và truyền thống buôn bán lâu đời, những người Hoa “tỵ nạn chính trị” này đã lập phố xá buôn bán và hoạt động thủ công nghiệp.
Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức vào khoảng năm 1820 đã cho biết các trấn thời Nguyễn ở Nam bộ vào đầu thế kỷ XIX đã là những trung tâm kinh tế sầm uất, cùng thành trì là trung tâm hành chính thì nhà cửa phố xá bến chợ luôn được nhắc đến như một thành phần quan trọng của một trấn. Sau đây là vài miêu tả trong phần Thành trì chí.
Trấn Phiên An có Chợ phố Bến trước thành, phố chợ, nhà cửa rất trù mật... tụ tập hàng trăn thứ hàng hóa, dọc bến sống thuyền buôn lớn nhỏ đi lại san sát . Phố Sài Gòn (Chợ Lớn) đường phố lớn, thẳng suốt ba đường giáp đến bến sông... đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái, người Việt và người Trung quốc cùng sinh sống... Hai bên nam - bắc bến sông không thứ gì là không có ; Ngoài ra còn có các chợ khác cũng nổi tiếng như Chợ Khung Dong (chợ cây da còm), Chợ Điều Khiển, phố chợ Lịch Tân (chợ Bến Sỏi), chợ Tân Kiểng...
Trấn Biên Hòa có phố lớn Nông Nại – cù lao Đại Phố. mái ngói tường vôi, lầu quán cao ngất, dòng sông rực rỡ, ánh nhật huy hoàng, liền nhau tới 5 dặm, chia làm 3 đường phố, đường phố lớn lát đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, toàn thể đường bằng phẳng như đá mài, kẻ buôn tụ tập, thuyền đi biển, đi sông đều đến cuốn buồm neo đậu, đầu đuôi thuyền đậu kế tiếp nhau, thật là một chỗ đô hội…
Trấn Định Tường có chợ và phố lớn Mỹ Tho, mái ngói cột chạm phủ, đình cao, nha thự rộng, thuyền bè sông biển ra vào, buồm thuyền trông như mắc cửi, thật là nơi đô hội lớn phồn hoa huyên náo .
Trấn Vĩnh Thanh có chợ Vĩnh Thanh, chợ Long Hồ phố xá liền nhau hàng hóa cả trăm món, dài đến 5 dặm ghe thuyền đầu suốt bến, miếu thần, đình làng mọc lên, đờn ca náo nhiệt, là chợ phố lớn của trấn. Chợ Sa Đéc: phố chợ nằm dọc theo bờ sông, mái nối mái liền nhau đối nhau san sát như vảy cá... trên bờ dưới sông có hàng trăm thứ hàng hóa tốt đẹp, nhìn ngợp mắt thỏa lòng, quả là chốn phồn hoa .
Trấn Hà Tiên: đường xá giao nhau, phố xá nối liền. Người Việt người Hoa người Cao Miên người Chà Và tụ họp chia ở, thuyền biển ghe sông qua lại như mắc cửi, thất là nơi đô hội góc biển vậy .
Giai đoạn Chúa Nguyễn mở mang vùng đất Nam bộ cũng là giai đoạn họat động ngọai thương ở khu vực Đông Nam Á khởi sắc. Ngòai thương cảng Hội An nổi tiếng từ thế kỷ XVI, các trung tâm thương nghiệp mới như Cù Lao Phố (Biên Hòa, Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên... cũng phát triển nhờ lợi thế của hệ thống giao thông đường thủy (cảng biển, sông rạch...). Từ năm 1790 Thành Gia Định từ một trung tâm chính trị mau chóng trở thành thương cảng lớn của Đàng Trong và trong khu vực Đông Nam Á.
Đến thời nhà Nguyễn, Gia Định thành là một đô thị có vai trò sánh ngang Thăng Long và Phú Xuân, nhưng khác với Thăng Long và Phú Xuân vai trò chủ yếu là trung tâm chính trị, Sài Gòn – Gia Định được nhìn nhận vai trò kinh tế quan trọng (thương nghiệp, thủ công nghiệp) bên cạnh vai trò trung tâm chính trị - văn hóa của Đàng Trong: thành phố này đã hình thành theo quy luật của các đô thị tiền tư bản, tức yếu tố “thị” có trước rồi phát triển thành yếu tố “thành” chứ không phải như các đô thị phong kiến ở đó yếu tố “thành” có trước rồi mở rộng thêm yếu tố “thị” .
...
III. Bản sắc Sài Gỏn - Bản sắc Nam bộ
3.1 Trong quan niệm và ngôn ngữ của người dân đồng bằng sông Cửu Long, “thành phố” gần như một danh từ riêng để chỉ Sài Gòn dù miền Tây có nhiều đô thị sầm uất, như Cần Thơ – “Tây đô”, như Long Xuyên – thành phố bên bờ sông Hậu, như Mỹ Tho bên sông Tiền – một “đại phố” từ thủa mới hình thành… Điều đó có hoàn cảnh lịch sử của nó.
Như đã nói ở trên, từ đầu thế kỷ XIX vùng Gia Định gồm 5 trấn là Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Sự trù phú về tự nhiên và phát đạt về kinh tế của năm trấn này được Gia Định thành thông chí miêu tả và liệt kê đầy đủ. Trấn Phiên An (vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định) là trung tâm của Gia Định và là đơn vị hành chính thống quản 5 trấn. Dù không còn là “kinh đô” như thời chúa Nguyễn nhưng Sài Gòn vẫn giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính quyền triều Nguyễn, là đơn vị hành chính đặc biệt trong buổi đầu thống nhất quốc gia. Đặc biệt là vị trí của Gia Định thành trong mối quan hệ (quân sự - chính trị) với Xiêm và Chân Lạp.
Từ cuối thế kỷ XIX Paul Doumer đã nhận xét về Sài Gòn “Khó mà so sánh Hà Nội với Sài Gòn, hai thành phố này mang những nét khác nhau và sẽ chẳng bao giờ giống nhau được. Nhưng vào năm 1897, ấn tượng về sự khác nhau rõ nét nhất là Sài Gòn là một thành phố đã hình thành, ta chỉ việc hoàn thiện và làm đẹp cho nó, trong khi Hà Nội là một thành phố mới chỉ được phác họa, vẫn còn rất nhiều thứ phải làm” .
Có thể hiểu nguyên nhân của sự khác biệt này là Sài Gòn từ khi khởi lập đã có chức năng và duy trì được chức năng đô thị kinh tế, dù sau đó Thành Gia Định (thành Phụng, thành Quy) bị san bằng, vị trí chính trị mất đi thì vai trò kinh tế đã không mất theo. Ngược lại do tiếp nhận những phương thức và kỹ thuật mới nên Sài Gòn nhanh chóng phát triển theo một mô hình đô thị mới.
Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ... thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác; phát triển văn hoá và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường thành phần công nhân, tiểu thủ công, trí thức, thương nhân, kĩ thuật viên... Theo đó thì quá trình đô thị hóa ở Nam bộ khá đồng bộ và trong giai đoạn nào thì Sài Gòn vẫn giữ vị trí và vai trò quan trọng nhất.
3.2 Ở Nam bộ ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung (ngoại vi) với văn hóa và người Sài Gòn (trung tâm) nói riêng. Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, cách thức làm ăn… Ở Sài Gòn khi thân thiết thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “tỉnh” hay “thành phố”.
Gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên .
Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ thường nói “làm chơi ăn thiệt” nhưng đây là thể hiện tư duy giản dị mọi việc, “coi vậy mà hổng phải vậy”, nhìn khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.
Với hơn ba trăm năm đi xa “gốc gác” từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã làm sợi dây “truyền thống” khép kín càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” biến đổi theo thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa – xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới. Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.
Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, lại luôn cần đùm bọc nhau trong hoàn cảnh mới, tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở trong các mối quan hệ xã hội, cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân rõ ràng.
Có thể nói tính cách người Sài Gòn/Nam bộ gắn liền với chữ “LÀM”; “làm ăn”, “Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn những đặc điểm trên tạo nên tính cách người Sài Gòn/ Nam bộ.
Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là thương cảng trung tâm kinh tế – văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn được coi là thành phố tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Cũng cần lưu ý rằng, trong một thời gian dài Sài Gòn là thủ phủ của chính quyền thực dân và thủ đô của chính quyền miền Nam trước năm 1975, từng là một trung tâm chính trị. Những yếu tố trên đây hợp thành và tạo nên một đô thị cổ Bến Nghé – Gia Định, một đô thị Sài Gòn – TP.HCM độc đáo khác với Hà Nội hay Huế – hai thành phố cũng là trung tâm của cả nước trong giai đoạn lịch sử khác .
3.3 Thời hiện đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt (khác với Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về tản cư, sơ tán nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố).
Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, một giai đoạn dài tổ chức chính quyền không kịp thích nghi với đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất, phức tạp nhất.
Những đặc điểm này làm cho Hà Nội và Sài Gòn khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Đặc biệt, tình trạng đột biến dân cư nhanh, ồ ạt, sự đứt gãy ký ức cộng đồng của hai đô thị lớn nhất nước đã để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực trong việc gìn giữ lối sống đô thị, bảo vệ và bảo tồn di sản đô thị.
Nam bộ được nhìn nhận có hai tiểu vùng trên cơ sở hai vùng địa hình: Đông Nam Bộ là lưu vực sông Đồng Nai và Tây Nam Bộ là lưu vực sông Cửu Long. Tuy nhiên về cộng đồng dân cư, về kinh tế và văn hóa giữa hai tiểu vùng khá giống nhau. Đây là điều tương đối khác so với miền Trung và miền Bắc. Trên cơ sở đó, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh được coi là và luôn là đại diện cho Nam bộ. Chính vì vậy có thể coi những đặc trưng lịch sử - văn hóa của Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh cũng là những đặc trưng của nhiều đô thị ở Nam bộ. Nguồn vốn di sản đô thị ở TP. Hồ Chí Minh có những loại hình và giá trị thế nào thì các đô thị Nam bộ cũng có như vậy, tuy mức độ khác nhau.
Lời tạm kết
Hiện nay tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam bộ, ngoài hệ thống di tích Lịch sử văn hóa (phần lớn là cấp tỉnh thành) và các bảo tàng chưa được nhiều người biết đến thì chưa có chiến lược và chương trình cụ thể nhằm làm cho người dân và thế hệ trẻ hiểu biết nhiều hơn, đúng hơn về di sản văn hóa. Một vài chương trình truyền hình, chuyên mục trên một số tờ báo… chưa đủ sức mang lại sự yêu thích và khơi dậy ý thức bảo vệ di sản văn hóa. Mỗi khi có vụ việc phá hoại di sản thì báo chí lên tiếng rồi sau đó lại chìm vào lãng quên. Mặt khác các chương trình “xúc tiến quảng bá du lịch” còn nặng về “khai thác” mà chưa chú ý làm cách nào tăng thêm giá trị cho di sản văn hóa.
Nói về bản sắc đô thị Sài Gòn – Nam bộ là góp phần khẳng định: Nam bộ - Sài Gòn không chỉ có vai trò “cùng cả nước vì cả nước” về kinh tế mà di sản văn hóa của vùng đất này đã đóng góp những giá trị quan trọng đối với lịch sử - văn hóa Việt Nam. Mặt khác, bảo tồn di sản còn là nuôi dưỡng ký ức và tình cảm đối với thành phố, với quê hương, vì vậy, bảo tồn di sản đô thị Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh và các đô thị Nam bộ còn góp phần vào tiến trình hòa hợp hòa giải dân tộc.
[Trích từ một bài viết dài với 10 tài liệu tham khảo, trích dẫn.]


Di sản khảo cổ - đô thị TP. HCM

  TP. Hồ Chí Minh – đô thị năng động bậc nhất Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế – xã hội v...