KHÔNG GIAN VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA TP.HCM

 https://znews.vn/khong-gian-van-hoa-dac-trung-cua-tphcm-post1593430.html?fbclid=IwY2xjawNbyaRleHRuA2FlbQIxMQABHpIj4UZ0vvl2N-cZGtYA4SQrLXLq2mPduyrH-qGaq43LM6b3awS_oJ3pwSzi_aem_A2hg5QBRy0LszX5Pz-KQxQ

Văn hóa đọc là đặc trưng của TP.HCM, được bắt nguồn từ rộng dài lịch sử và không ngừng định hình bản sắc đô thị trong thời hiện đại.

“TP.HCM là trung tâm kinh tế nhưng cũng là một trung tâm văn hóa lớn, và văn hóa đọc chính là một điển hình”, TS Nguyễn Thị Hậu, tác giả Đô Thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cổ học và bảo tồn di sản, khẳng định.

Nhà nghiên cứu nhìn nhận văn hóa đọc ở TP.HCM có chiều sâu lịch sử từ những chợ sách cũ, thói quen đọc báo in phổ biến trong đời sống thường nhật, đến nhu cầu tiếp cận tri thức bình dân của người dân. Đó là một truyền thống văn hóa đã được cộng đồng duy trì qua nhiều thế hệ và góp phần hình thành bản sắc đô thị.

Có thể nói, TP.HCM không chỉ giữ vai trò đầu tàu kinh tế mà còn là trung tâm văn hóa, nơi văn hóa đọc trở thành một phần cấu trúc tinh thần đô thị. Định hướng chính sách trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I (nhiệm kỳ 2025-2030) cho thấy thành phố đang định hình một chiến lược phát triển văn hóa bền vững. Trong đó, sách không chỉ là sản phẩm đơn thuần mà là công cụ để phát triển toàn diện con người và bản sắc đô thị.

Điểm đến văn hóa giữa lòng "siêu đô thị"

Theo TS Nguyễn Thị Hậu, Đường sách Nguyễn Văn Bình nói riêng và đường sách trên địa bàn thành phố nói chung là sự kế thừa đúng đắn và có chọn lọc của dòng chảy tri thức lâu đời tại TP.HCM. Thành phố từng nổi tiếng với các chợ sách lớn và truyền thống đọc báo, đọc sách sâu rộng trong cộng đồng.

Nhà nghiên cứu gọi Đường sách Nguyễn Văn Bình là “một không gian văn hóa rất đặc trưng, có hiệu quả cả về văn hóa lẫn kinh tế”, đồng thời xem địa điểm này như một “không gian di sản văn hóa mới” của thành phố. Không chỉ là nơi bán sách, Đường sách đã từng bước chuyển mình thành điểm hẹn cộng đồng, gắn với nếp sống thị dân và trở thành điểm du lịch văn hóa đặc trưng giữa lòng “siêu đô thị”.

Nửa đầu năm nay, Đường sách TP.HCM ghi nhận doanh thu hơn 31 tỷ đồng, tăng gần 9% so với cùng kỳ. Song, điều đáng giá là 212 sự kiện văn hóa đọc, giao lưu, nghệ thuật đã được tổ chức, thu hút bạn đọc và du khách trong, ngoài nước. Xu hướng du lịch gắn với sách đang manh nha hình thành như cách giới trẻ đến đây mua sách và trải nghiệm một phần bản sắc văn hóa đô thị.

Không khí trải nghiệm, tương tác từ các buổi tọa đàm, triển lãm sách… khiến nơi đây trở thành một hệ sinh thái văn hóa cộng đồng năng động. TS Hậu so sánh Đường sách TP.HCM với bờ sông Seine (Pháp), nơi mà các sạp sách được yêu thích và văn hóa đọc phát triển sinh động giữa nhịp sống đô thị, gắn với ký ức, thói quen thường nhật của người dân.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cũng cảnh báo nguy cơ thương mại hóa lấn át giá trị văn hóa gốc. “Cái gì mà cộng đồng duy trì được thì mới trở thành bản sắc. Nếu chỉ chăm chăm vào lợi ích nhất thời, không gian văn hóa sẽ mất đi giá trị cốt lõi”, bà nhấn mạnh.

Gần 10 năm hoạt động, Đường sách TP.HCM đang bước vào giai đoạn mới. Giờ đây, giới trẻ xem việc ghé Đường sách là một phần của hành trình khám phá thành phố tương tự các điểm du lịch như chợ Bến Thành hay phố đi bộ Nguyễn Huệ. Câu chuyện không còn là “bán được bao nhiêu bản sách”, mà là giữ được bao nhiêu người đọc quay lại, bao nhiêu cộng đồng được tạo dựng từ sách.

Hướng phát triển bền vững cho thành phố

Đường sách TP.HCM không chỉ là mô hình thành công về văn hóa cộng đồng, mà còn phản ánh tư duy phát triển đô thị đặt con người và tri thức vào trung tâm.

Theo ông Lê Hoàng, Giám đốc Công ty Đường sách TP.HCM, thách thức hiện nay không chỉ là bán được bao nhiêu bản sách, mà là giữ chân được bao nhiêu người đọc quay lại. Không gian này đang chuyển mình thành một hệ sinh thái tri thức, nơi sách là “cốt tủy” và các hoạt động bổ trợ như cà phê, sự kiện đóng vai trò tạo sinh khí văn hóa.

Góc nhìn này phù hợp với tinh thần của Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I (nhiệm kỳ 2025-2030). Dự thảo nhấn mạnh đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào lĩnh vực văn hóa - xã hội, trong đó công nghiệp văn hóa, xuất bản và phát triển văn hóa đọc là trụ cột.

Thành phố cũng đang hướng đến hình ảnh là trung tâm công nghiệp văn hóa và sáng tạo của cả nước, nơi kết nối văn hóa với du lịch, giáo dục và kinh tế đêm. Việc xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa từ thành phố đến cơ sở, cùng các đề án phát triển xuất bản, thúc đẩy văn hóa đọc được kỳ vọng sẽ tạo đòn bẩy bền vững cho những không gian như Đường sách.

Không gian này còn đóng vai trò trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng “con người TP.HCM chân - thiện - mỹ” như Dự thảo đề ra. Khi người dân có nơi để tiếp cận tri thức, tương tác cộng đồng và duy trì thói quen đọc, giá trị văn hóa không chỉ được gìn giữ mà còn lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống đô thị.

Nhìn rộng ra, những gì Đường sách đang làm không đơn thuần là thành công của một mô hình văn hóa công cộng. Đó là minh chứng cho hướng phát triển văn hóa đô thị gắn liền với bản sắc, đổi mới và hội nhập - yếu tố nền tảng để TP.HCM hiện thực hóa tầm nhìn trở thành siêu đô thị quốc tế mang đậm dấu ấn tri thức và văn hóa.



Thấy gì từ vụ biển hiệu 'Chợ Nga' giữa khu vực 'Km 0' của TP.HCM?

 

Việc treo biển hiệu “Chợ Nga” tại tòa nhà số 125 Hai Bà Trưng (phường Sài Gòn, TP.HCM), vị trí tiếp giáp Bưu điện Trung tâm TP.HCM và Đường Sách Nguyễn Văn Bình, tạo nên nhiều ý kiến trái chiều. Sự xuất hiện của biển hiệu thương mại nổi bật trong khu vực vốn được xem là không gian văn hóa trung tâm khiến dư luận đặt câu hỏi nên ứng xử như thế nào với những vùng lõi di sản của đô thị?

Không gian quanh Bưu điện TP.HCM, bao gồm Đường sách Nguyễn Văn Bình, Nhà thờ Đức Bà và nhiều công trình mang tính biểu tượng được xem là “vùng lõi di sản văn hóa” của đô thị Sài Gòn. Dù đúng quy trình pháp lý, hoạt động thương mại chen vào khu vực này vẫn làm dấy lên lo ngại.


Biển hiệu "Chợ Nga" nhìn từ địa chỉ số 125 Hai Bà Trưng (phường Sài Gòn, TP.HCM). Ảnh: Đỗ Khang.

Không để thương mại lấn át văn hóa

TS Nguyễn Thị Hậu, chuyên gia nghiên cứu về di sản văn hóa đô thị - tác giả sách Đô Thị Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Khảo cổ học và bảo tồn di sản, nhận định: “Tòa nhà Bưu điện hiện đã nằm trong diện kiểm kê di tích, đồng nghĩa với việc không gian bao quanh phải được ứng xử như một di sản. Dưới góc độ pháp lý, việc đưa thương mại không phù hợp vào không gian ấy là sai. Về mặt tình cảm, đó là sự bất nhẫn với nỗ lực gìn giữ một vùng ký ức đô thị”.

Dưới góc độ nghiên cứu di sản đô thị, TS Nguyễn Thị Hậu nhận định sự việc cho thấy khoảng trống trong cách ứng xử với vùng lõi văn hóa đô thị. Bà cho rằng không thể tách biệt giữa “mặt trước là Bưu điện, mặt sau là nhà của doanh nghiệp khác”. Di sản không thể chia lô, xẻ phần để ứng xử khác nhau.

“Không gian di sản, văn hóa là không gian toàn vẹn về kiến trúc, công năng và ký ức. Việc phân mảnh trong quản lý để đơn vị này làm một kiểu, đơn vị khác làm kiểu khác sẽ khiến bản sắc bị rạn nứt và mất dần. Cần nhìn chung một hướng là bảo vệ cả không gian di sản, văn hóa chứ không chỉ bản thân kiến trúc, di tích đơn lẻ”, TS Nguyễn Thị Hậu nhấn mạnh.



Khu vực tòa nhà Bưu điện Trung tâm TP.HCM, Nhà thờ Đức Bà... được xem là "vùng lõi di sản văn hóa" của thành phố, theo TS Nguyễn Thị Hậu, ẢnhLinh Huỳnh.

Tại cuộc họp do Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM chủ trì, đại diện Sở, Hội Di sản Văn hóa TP.HCM, Hội Kiến trúc sư TP.HCM đều đồng tình vấn đề nằm ở câu chuyện hoạt động thương mại không hài hòa với cảnh quan văn hóa.

Bà Lê Tú Cẩm, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa TP.HCM, cho rằng không gian quanh Bưu điện là nơi người dân “mặc định” là vùng của thông tin và truyền thông lẫn văn hóa. “Không phải người ta phản đối vì một cái tên, mà vì cảm giác không gian quen thuộc đang bị thay đổi. Đây không chỉ là chuyện của một tòa nhà, mà là cả khu vực di sản liền mạch quanh Nhà thờ Đức Bà, UBND phường Sài Gòn, Đường sách Nguyễn Văn Bình…”, bà Lê Tú Cẩm nhận xét.

Ở góc độ kiến trúc, ông Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư TP.HCM, xác nhận công trình đã được cấp phép và phương án xây dựng từng yêu cầu phải đảm bảo khoảng lùi, kiến trúc phù hợp để “tôn lên” công trình văn hóa.

Tuy vậy, ông cho rằng “điều gây dư luận lần này là việc treo bảng ‘Chợ Nga’ với thiết kế thị giác đậm nét thương mại ngay cạnh một công trình mang tính biểu tượng cao”. Ông đề xuất cần xem xét lại cách đặt tên, thiết kế và truyền thông sao cho hài hòa với không gian kiến trúc lân cận.

Cần cơ chế bảo vệ vùng lõi văn hóa đô thị

Sự việc liên quan đến biển hiệu "Chợ Nga" cho thấy khoảng trống trong cơ chế quản lý, quy hoạch và định danh không gian văn hóa trong đô thị, theo TS Nguyễn Thị Hậu. Nhà nghiên cứu nhìn nhận: “Không gian văn hóa rất mong manh và dễ bị phá vỡ. Trong khi đó, không gian thương mại có thể được đặt ở bất cứ đâu. Vì vậy, cần giữ gìn những vùng lõi có giá trị biểu tượng như khu trung tâm TP.HCM”.

Từ năm 2010, TS Hậu đã nêu ra khái niệm “vùng lõi di sản văn hóa”, chỉ những khu vực từ Lê Duẩn đến Bến Bạch Đằng, từ Hai Bà Trưng đến Hàm Nghi. Đây là nơi tập trung những công trình kiến trúc và cảnh quan đã tạo nên ký ức đô thị đặc trưng của TP.HCM. Việc phát triển tại khu vực này, theo bà, không thể theo lối ngắn hạn, chạy theo lợi nhuận ngay tức thì.

“Chúng ta cần phát triển kinh tế di sản như một con đường bền vững. Đừng nghĩ rằng bảo tồn là làm chậm phát triển. Ngược lại, nó là một dạng phát triển đặc biệt”, bà nói thêm.

Nhà nghiên cứu cho rằng thay vì đưa vào một không gian thương mại đại trà, TP.HCM có thể biến phần phía sau Bưu điện thành một bảo tàng bưu chính hoặc bảo tàng thông tin liên lạc vừa đúng chức năng, vừa tạo nguồn thu lâu dài.

 


Một số tác phẩm của TS Nguyễn Thị Hậu về di sản đô thị. Ảnh: Quỳnh My.

Về mặt chính sách, cả ba chuyên gia nhấn mạnh cần có cơ chế pháp lý để bảo vệ không chỉ các công trình đã xếp hạng, mà cả những không gian đang kiểm kê di tích hoặc được cộng đồng mặc định là có giá trị. Họ đề xuất thành phố nên quy hoạch riêng cho vùng lõi văn hóa, giới hạn chiều cao, màu sắc quảng cáo, vật liệu xây dựng và loại hình kinh doanh.

“Không gian văn hóa không cần quá cao siêu, mà cần được cộng đồng giữ gìn, sử dụng đúng chức năng. Nếu chỉ nghĩ ngắn hạn, cho thuê thương mại thì có thể được tiền ngay, nhưng thế hệ sau sẽ không còn gì để thụ hưởng. Đó là điều đáng tiếc”, TS Nguyễn Thị Hậu nhấn mạnh.

Trả lời Tri Thức - Znews trong cuộc họp báo về tình hình kinh tế - xã hội TP.HCM chiều 9/10, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết đã chủ động làm việc với các bên liên quan như Đường sách Nguyễn Văn Bình, Sở Công Thương… để tìm hướng xử lý phù hợp.

“Dù các hoạt động kinh doanh không bị cấm theo quy định pháp luật thì vẫn được hoạt động bình thường nhưng phải gắn với việc hài hòa giữa kinh doanh và việc phát triển các dịch vụ văn hóa, không gian văn hóa. Điều này bao gồm cả không gian di tích ở khu vực vùng lõi như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố và các khu vực di tích xung quanh. Sở sẽ làm việc với các đơn vị để có thông tin sớm về việc hoạt động kinh doanh tại khu vực này có được phép hay không”, đại diện Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết.

 https://znews.vn/thay-gi-tu-vu-bien-hieu-cho-nga-giua-khu-vuc-km-0-cua-tphcm-post1592360.html?gidzl=4uyALMOxo5SJbGbLOINAKHQH0rLy8iHIMSG517Xyp5K4n5a39I6V3rIIMLud9P5V0iG5M6D4WF0rPJRFLm&fbclid=IwY2xjawNbyaRleHRuA2FlbQIxMQABHhSWIEmVdiO1RfTY2HtyruEkAte1Qn0yJIebPgGkGmFGvmEJ2Hwe1EiDl5fp_aem_kJEaEKYAaqjum6Kv1drJ7A

Giúp trước khi có nạn

Hàng năm tôi thường đi công tác ở miền Bắc, miền Trung vào “mùa bão lũ” nên trước khi đi tôi luôn chú ý thông tin thời tiết. Có thể nói trên các phương tiện thông tin hiện nay việc cảnh báo tốc độ, mức độ thiên tai khá kịp thời, người dân có thêm thông tin để phòng chống. Vậy nhưng những năm gần đây hậu quả của thiên tai bão lũ ngày càng nặng nề, thiệt hại về người và của rất to lớn.

Những ngày tháng 9 này bão Bualoi gây nhiều thiệt hại ở miền Bắc, miền Trung... Thật đau lòng vì những tai họa đã từng xảy ra lại tiếp tục xảy ra như lũ quét, nước dâng nhanh do mưa lớn... không chỉ ở vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi mà ngay ở các thành phố lớn như Hà Nội đã chịu cảnh ngập lụt chưa từng có.

Ai cũng biết rằng thiên tai không thể hoàn toàn tránh được, nhiều hiện tượng thiên nhiên nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, nhất là biến đổi khí hậu đang ngày càng phức tạp. Vấn đề đặt ra là làm sao giảm thiểu tối đa thiệt hại, đảm bảo an toàn cho con người và khắc phục thiệt hại khi thiên tai ập đến. Một câu hỏi đặt ra trong tôi là tại sao khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, cảnh báo sớm và kịp thời mà hậu quả thiên tai vẫn khó lường, thiệt hại về người và của vẫn nặng nề?

Sau các trận bão vừa qua, nhiều nơi chính quyền địa phương ứng phó khá nhanh, phối hợp nhân dân, huy động lực lượng khắc phục sạt lở, thông tuyến, hỗ trợ dân. Nhà nước đã khẩn trương phân bổ ngân sách hỗ trợ các tỉnh chịu ảnh hưởng. Người dân vùng thường xuyên chịu bão lũ năm sau lại thiên tai như năm trước nên nguồn lực vật chất có hạn, không đủ điều kiện thực hiện việc tự bảo vệ lâu dài như “xây nhà chống lũ”, không có nguồn dự trữ lương thực thực phẩm, nước uống thuốc men trước khi bão lũ ập đến. Việc sơ tán người già, trẻ em hay các loại gia súc gia cầm còn mang tính tự phát nên hầu như không có hiệu quả. Do đó, việc ra tay của các cấp chính quyền thật sự là cần thiết cho dân trong cơn hoạn nạn.

Thành ngữ có câu “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”, thậm chí là “lá rách đùm lá nát”, thể hiện đạo lý truyền thống của nhân dân ta, đề cao tinh thần chia sẻ, tương trợ, nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Thông điệp ngàn đời nay của dân tộc là sống có tình, có nghĩa, biết đùm bọc lẫn nhau. Đây cũng là cốt lõi của tinh thần đoàn kết dân tộc.

Nhưng bối cảnh xã hội của những câu thành ngữ này là từ hàng trăm năm trước, trong một xã hội nông nghiệp lạc hậu hầu như không có sự cảnh báo hay thông báo kịp thời về thiên tai, ngoài một số kinh nghiệm dân gian. Vì vậy cách ứng xử như trên là nhấn mạnh phản ứng trước tình huống đã xảy ra, hành động cứu trợ, chia sẻ khẩn cấp khi sự cố đã hiện diện. Những ứng xử phản ánh đạo lý nhân văn nhưng cũng cho thấy tư duy ứng phó với “sự đã rồi” rất phổ biến: chờ có nạn thì mới lo giúp nhau.

Thực tế sau bất kỳ một thiên tai hay tai nạn nào, rất nhanh chóng, người dân ở nhiều nơi đã tự nguyện đóng góp lương thực, áo quần, tiền bạc, công sức cứu trợ. Nhà nước, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, Hội chữ thập đỏ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp… cũng nhanh chóng “vào cuộc” tổ chức hỗ trợ khẩn cấp, phân bổ nguồn cứu trợ và giúp người dân tái thiết cuộc sống.

Nếu “chị ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách” là lời nhắc về nghĩa tình khi đã xảy ra hoạn nạn, thì bài học hôm nay cần bổ sung một cách nghĩ mới: “Chị chưa ngã, em đã đỡ tay; lá chưa rách, lá lành đã chắp thêm”. Tức là biến tinh thần tương trợ thành trách nhiệm phòng ngừa, chuẩn bị, bảo vệ lẫn nhau từ sớm, để hạn chế tối đa cảnh ngã – rách năm nào cũng tái diễn.

Đó chính là trách nhiệm của các chính quyền trong việc xây dựng và thực thi tốt hơn chính sách phòng ngừa rủi ro thiên tai, tai nạn; Hỗ trợ sinh kế bền vững về nguồn sống, nơi cư trú, không để người dân nghèo, yếu thế sống trong vùng dễ bị thiên tai mà không có phương án thay thế. Đó là giáo dục ý thức phòng ngừa, kỹ năng ứng phó thiên tai, biết sơ tán, biết bảo vệ tài sản trước khi bão lũ đến. Là tinh thần và hành động chia sẻ sớm: tổ chức cứu giúp, hỗ trợ chuẩn bị, di dời người dân trong vùng nguy hiểm trước khi xảy ra điều đáng tiếc. Là thay đổi tư duy để có hành động dự phòng thường trực, “giúp trước khi có nạn” thay vì chỉ cứu sau nạn.

Thiên tai luôn làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng, của từng người với đồng bào mình. Nhưng cũng phản ánh trình độ tư duy và tổ chức điều hành đối phó với thiên tai của chính quyền các cấp, cao hơn là trách nhiệm đối với nhân dân và xã hội. Biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp thì càng đòi hỏi trình độ và trách nhiệm đó lớn hơn.

Báo Tuổi trẻ ngày 4/10/2025



Thu ao ước...

 Có người bạn, người em là nhiếp ảnh gia nổi tiếng nên mình cũng được ké nhiều tấm hình đẹp - do người chụp :)
Ao ước mãi cuối cùng "thu" cũng đến... 







NGÀY GIỖ CHA

 Ngày 17 tháng 8 âm lịch là ngày giỗ Ba.

Gia đình thường tụ hợp đông đủ với Ba vào ngày này, nhưng chỉ đến ngày cuối tuần mới có thể mời bà con bạn bè đến nhà uống với Ba ly rượu.
Thi thỏang con vẫn gặp Ba về với con trong mơ. Đó là những lúc con gặp điều không vui, những lúc con buồn lòng vì người này, vì chuyện nọ. Những lúc ấy con nhớ Ba, mong có một người hiểu con, thương con như Ba, để con có thể dựa dẫm mà không thấy ngại ngần, để con có thể hờn giận mà biết rằng mình luôn được tha thứ… Sự nhân hậu của ba vẫn bên con, hàng ngày...
“Con gái giống cha giàu ba họ”, người ta nói vậy. Nhà mình chẳng bao giờ giàu có nhưng cũng không quá nghèo, vì mình có một nghề tử tế để kiếm sống. Biết đủ là đủ, ba vẫn dạy tụi con như thế mà. Người ta còn bảo “con gái nhờ đức cha”. Con nghĩ, con cái còn là Đức của cha mẹ. Nhìn con cái người ta có thể biết cha mẹ là người như thế nào. Sống thế nào để cha mẹ không bị thiên hạ “mắng vốn”, anh chị em con cố gắng sống như thế, và cũng mong các con của mình như vậy… Ba ơi, con nghĩ, ít nhất đến lúc này Ba có thể hài lòng vì các cháu nội ngoại của Ba.
Mỗi năm con lại đọc những gì Ba viết trong Nhật ký Dọc đường lưu diễn. Để hiểu hơn về Ba Má, hiểu hơn về một thế hệ những con người đã sống trung thực với niềm tin và lý tưởng trong sáng!
Hình: Ba mình tại Báo Tuổi trẻ trong buổi tọa đàm về sân khấu tpHCM, khoảng 1983. Hình ảnh của Nhà báo Nguyễn Công Thành.
Một bài thơ của Thầy Hoàng Như Mai - người bạn thân thiết của ba mình.
Con nhớ Ba, nhớ Thầy!






BAY NGƯỢC – TỰ SỰ CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ MANG HÌNH DÁNG KHẢO CỔ

 BAY NGƯỢC –

TỰ SỰ CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ MANG HÌNH DÁNG KHẢO CỔ
(viết về Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu – Hậu Kc Nguyễn)
Có người đào trong đất để tìm lại hình hài của lịch sử.
Còn chị – Hậu khảo cổ – lại đào trong ký ức con người, trong cát bụi cảm xúc,
để thấy những mảnh gốm tình yêu vỡ ra mà vẫn lấp lánh ánh nhân văn.
Tưởng chừng suốt đời chị chỉ nói với tro than, gốm sành, rìu đá –
ai ngờ chị lại nói cùng gió, cùng Paris, cùng những tin nhắn vô hồi.
Tưởng chừng chị chỉ làm việc với thời gian nghìn năm –
ai ngờ chị lại làm việc với một khoảnh khắc nhớ quên.
Khi một nhà khảo cổ viết thơ,
người ta nghĩ đó là cuộc phiêu lưu cảm xúc.
Nhưng không – đó là hành trình ngược chiều.
Một cuộc bay ngược,
về phía mùa thu đã cũ,
nơi chị soi lại những dấu tích của chính mình.
Thơ chị không ồn ào,
nó lặng lẽ như một nếp gấp trong lòng đất.
Nơi mảnh gốm của đời sống và mảnh vỡ của tâm hồn
tình cờ khớp vào nhau,
vừa vặn đến xót xa.
“Ta tạm ứng cho nhau tình yêu,
rồi truy lĩnh từ người khác…”
– câu thơ ấy không chỉ là nỗi buồn đàn bà,
mà là triết lý của một người từng chứng kiến
biết bao phế tích của đời sống:
thành quách sụp đổ, tượng đài gãy đổ,
và cả trái tim con người – không ai đào lại, nhưng vẫn hoang tàn.
Người ta gọi chị là “Hậu khảo cổ”,
nhưng trong thơ, chị là “Hậu của mùa thu” –
dịu dàng, từng trải,
và dường như luôn đứng giữa hai bờ:
khoa học và tình cảm, lý trí và run rẩy.
Chị không làm thơ để phô diễn.
Chị làm thơ như người thắp đèn trong hang cổ,
nhìn thấy trên vách đá hình bóng người xưa –
rồi bỗng nhận ra: hình bóng ấy chính là mình.
Có thể, mỗi bài thơ là một hiện vật.
Không cần trưng bày trong viện bảo tàng.
Chúng sống trong lòng người đọc,
như chiếc áo sơ mi đàn ông mà người đàn bà khoác lên –
vừa vặn nỗi cô đơn,
vừa lấp lánh vẻ khêu gợi của một trí tuệ từng trải.
Và giữa những “mess”, “email”, “chat chit” của thời đại số,
chị vẫn kịp nhặt lại “nét chữ người yêu”,
như nhặt một di chỉ cuối cùng của cảm xúc thật,
trước khi mọi thứ hóa thành font chữ vô hồn.
Thơ của Hậu khảo cổ – không phải là sự rẽ ngang,
mà là chuyến trở về.
Về với người đàn bà trong chiếc áo sơ mi đàn ông,
về với mảnh đất của nhớ – quên,
về với chính mình –
người vẫn tin, sau từng lớp bụi thời gian,
trong lòng người vẫn còn nguyên vẹn một mạch nguồn yêu thương.
— Gã Khờ



HẬU KHẢO CỔ - một tâm sự khác của Gã Khờ, người bạn của tôi! Chị đi nhặt những dấu xưa, Giữa bao lớp đất nắng mưa bồi trầm. Ngón tay chạm vết thời gian, Nghe trong gió thổi, tiếng đàn xa xôi. Chị về kể chuyện đời trôi, Mảnh gốm vỡ cũng một thời ấm cơm. Người xưa gửi lại tấc lòng, Chị gom góp lại, giữa dòng nhân gian. Chữ trong sách, chữ trên gò, Chữ in vết cắt con đò ngày xưa. Chị khơi bao chuyện không thừa, Cho người hiện tại hiểu vừa người xưa. Chị như bóng dáng cơn mưa, Mát lòng lớp đất, đong đưa hồn người. Nhặt từng ký ức rụng rơi, Gửi vào năm tháng một lời lặng thinh.

TỪ MÙA THU CÁCH MẠNG

 https://congan.com.vn/tin-chinh/tu-mua-thu-cach-mang_182033.html

Nguyễn Thị Hậu

Mỗi năm gần đến ngày Quốc khánh 2/9 – là ngày Độc Lập theo cách gọi quen thuộc trong gia đình tôi từ thời ông bà nội – tôi lại nhớ đến những gì ba tôi thường kể lại, về những ngày đi theo “tiếng gọi sơn hà” từ tháng Tám năm 1945.

Trước năm 1945, ba tôi tôi dạy học ở Cái Răng, một thị trấn nhỏ - nay là một quận của thành phố Cần Thơ. Sau đó được đổi về dạy ở quê nhà, trường huyện Chợ Mới – An Giang. Ba tôi viết trong hồi ký: Khi còn là một thầy giáo dạy ở trường quận, tôi đã mê diễn kịch, tôi hăng hái tập cho học trò hát những bài như: Tiếng gọi thanh niên, Bạch Đằng Giang, Kinh cầu nguyện, Xếp bút nghiên… Hè năm 1943, tôi tổ chức một đêm diễn: có hài kịch ngắn, có đồng ca, có đơn ca và bản thân tôi cũng tham gia diễn kịch. Buổi diễn khá thành công. Tôi viết thư về báo cho tía tôi. Tía ghi chú vào chỗ giấy còn trống trong thơ: “Tía coi thơ này mà rùng mình, rợn óc cho tương lai của con. Nếu tạo vật dắt đường cho con đi về con đường hát xướng thì đời con sẽ vất vả, nhưng mạng vận biết sao?”. 

Những ngày năm đó, chiều chiều, ba tôi hay lên cầu đúc, đứng dựa lan can nhìn xuống dòng nước phù sa cuồn cuộn, ngút ngát dòng sông về phía Cần Thơ, rồi đi xa, xa lắm… ông mơ một cuộc đời được đi khắp nơi cho thỏa chí tang bồng. Những chiếc xe du lịch sang trọng chạy qua chạy lại, trên xe là quan lại binh lính người Pháp, ba tôi chua xót nghĩ rằng, một thầy giáo nghèo như ông nhứt định là chết già ở một cái trường làng nào đó… Mơ làm gì những cuộc du lịch trên đất nước đang bị ngoại bang đô hộ!

Tháng 3/1945, quân Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Ngày 25/8/1945, nhân dân Sài Gòn giành chính quyền từ tay quân Nhật. Tuy nhiên, chỉ 28 ngày sau, quân Pháp với sự giúp đỡ của quân Anh đánh chiếm lại Sài Gòn. Ngày 23/9/1945 Nam bộ kháng chiến bùng nổ. Trong cái khí thế hùng dũng ban đầu của Cách mạng, ba tôi được cuốn theo làn sóng kháng chiến. Ông đến Ủy ban tỉnh An Giang, xin vào công tác. Cấp trên biết ông có chút ít kiến thức, lại có khiếu văn nghệ, nên phân công ông lo tổ chức một đoàn kịch. Vậy là cùng một số đồng chí, ba tôi thành lập Đoàn kịch Cứu quốc.

Khi ba tôi xin phép được “đi hát”, ông nội tôi suy nghĩ rồi nói “Tía xem đời Cụ Hồ chẳng khác nào như đức Thích Ca. Cụ là người như vậy, mà cụ cho hát, chắc là hát có ý nghĩa. Trào Tây, hát là xướng ca vô loại. Bây giờ, hát cho Chính phủ Cụ Hồ là hát cứu nước. Tía đồng ý cho con đi hát”. Ngày bác tôi và ba tôi ra bưng biền kháng chiến, ông nội đã khấn trước bàn thờ ông bà “Hôm nay con đưa hai con đi theo Cụ Hồ đánh Tây giành độc lập, không để cho thằng Tây ngồi lên đầu lên cổ dân mình. Con cháu có gì sai quấy mong Cụ dạy bảo. Cầu trời Phật ông bà phù hộ cho con cháu bình an!” Giản dị vậy thôi, bởi vì đối với ông nội tôi, Cụ Hồ là người vì dân vì nước. Sự giác ngộ đầu tiên của ba tôi và nhiều người cùng thế hệ ông là niềm tin vào tấm gương Cụ Hồ, dù chưa hiểu biết nhiều về “lý tưởng cộng sản” nhưng họ là những người yêu nước nên đã tích cực tham gia Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp.

Kể từ ngày đó, ba tôi và đoàn hát của ông đã vượt qua chín năm dài khó khăn và ác liệt, đi bộ chèo ghe băng đồng lội nước lưu diễn khắp miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những ngày này ba tôi đã sáng tác nhiều ca khúc như Hồn thiêng chiến sĩ, Tuyên truyền lưu động, Làn sóng dân chủ, Tháp Mười anh dũng... Nhưng trong đó ca khúc “Cương quyết ra đi”sáng tác ngày đầu khánh chiến  là một bài hát được nhiều người yêu thích và thuộc lòng. “Cờ Việt Nam bao năm nhuộm máu hùng anh... Ta ra đi mùa thu xa xưa ấy, vung gươm thiêng ta cắt đứt đường tơ vương”. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng – một học trò của ba tôi - cũng nhớ lại: “Kháng chiến. Học trò trở về trường nhưng thầy không dạy nữa, thầy đã vào bưng biền rồi, thầy đã “Cương quyết ra đi” như lời bài hát đầu tiên của thầy vang trên khắp nẻo đường kháng chiến. Thầy lập đoàn hát “Cứu quốc đoàn”, “Tuyên truyền xung phong” từ sông Tiền dài xuống sông nước vùng đất U Minh, từ đó thầy gắn cuộc đời mình với sân khấu, từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc trở về Nam cho đến hết cả cuộc đời”.

Tại bưng biền miền Tây, ba tôi cùng đoàn “Truyền bá vệ sinh” sáng tác và biểu diễn những vở kịch, bài ca vui nhộn, sinh động mà rất khoa học để tuyên truyền cho đồng bào giữ vệ sinh nhà ở, nhà tắm, cầu tiêu, giữ sạch môi trường sinh sống như kinh rạch, vườn tược, góp phần bảo vệ sức khỏe và tránh các dịch bệnh... Không nề hà bất cứ nhiệm vụ gì được giao, các đoàn hát của ông đi đến đâu cũng được đồng bào, chiến sĩ yêu mến, trông đợi... Nhờ đó, ông cũng “tuyển” được nhiều “diễn viên”. Sau này một số cô chú tập kết ra miền Bắc và trở thành những nghệ sĩ nổi tiếng.

Năm 1954, theo sự phân công của tổ chức, ba tôi cùng nhiều đồng nghiệp đi tập kết. Kế tiếp là những năm dài ông thường xuyên vắng nhà vì những chuyến lưu diễn khắp nơi của Đoàn Cải lương Nam bộ, Đoàn kịch nói Nam bộ mà ba tôi làm trưởng đoàn: rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương, đường 559 Trường Sơn… Cho đến tháng 4.1975 ông được trở về Sài Gòn, về An Giang quê hương yêu dấu sau hơn hai mươi năm “ngày Bắc đêm Nam”.

***

Những câu chuyện trong gia đình tôi về sự tham gia kháng chiến của thế hệ ông cha luôn thể hiện đạo lý “Giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha”. Đây được coi là một tính cách nổi bật của người Nam bộ. Tính cách này được hình thành từ nguồn gốc của những thế hệ lưu dân vượt qua mọi hoàn cảnh nghèo khó, trốn tránh tù tội, chống lại sự áp bức… đi vào khai phá vùng đất mới, nơi trời cao đất rộng nhưng hoang sơ lạ lẫm, trên bờ cọp kêu dưới sông sấu táp, xung quanh đều là những người xa lạ. Vì vậy họ không câu nệ nguồn gốc dòng họ hay thân phận, “tứ hải giai huynh đệ”, bởi vì họ chỉ có một “cái vốn” mang theo để có thể sống: tình nghĩa và đoàn kết, trong hoàn cảnh ngặt nghèo nào cũng chống lại sự bất công. Từ khi Nam kỳ bị mất vào tay giặc Pháp, người dân Nam bộ không ngừng đấu tranh, bởi không cam chịu sự bất công lớn nhất là dân tộc Việt bị mất nền độc lập - tự do.

Câu chuyện đi theo cách mạng của ba tôi và của nhiều chú bác cùng thời rất tự nhiên và giản dị như lẽ sống đời thường. Từ một thầy giáo “ham đờn ca hát xướng”, ông đi kháng chiến đánh Tây bằng cách góp công sức làm nghệ thuật phục vụ đồng bào, chiến sĩ. Lý tưởng “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đã được thế hệ “Mùa thu rồi ngày hăm ba...” hy sinh cuộc sống cá nhân, hy sinh của cải, tính mạng để dành lấy cho đất nước. Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên ba tôi được trở về quê nội, đừng trước bàn thờ ông bà, ông kính cẩn thưa rằng: Ba ơi! Khi con về thì ba má không còn nữa. Nhưng con đã cố gắng làm tròn lời ba căn dặn khi ba phó thác con cho Bác Hồ dạy dỗ: Con theo Cụ Hồ ra đi làm việc nước, đánh Tây giành độc lập”.

 TP. Hồ Chí Minh, tháng 8.2025

*Ba tôi (người tóc bạc trắng, keo kiếng trắng) Nghệ sĩ ưu tú, đạo diễn Nguyễn Ngọc Bạch, Nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao TPHCM  cùng đoàn nghệ sĩ TPHCM tại HN trong dịp Đại hội Hội sân khấu toàn quốc lần thứ II - 1983



KHÔNG GIAN VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA TP.HCM

  https://znews.vn/khong-gian-van-hoa-dac-trung-cua-tphcm-post1593430.html?fbclid=IwY2xjawNbyaRleHRuA2FlbQIxMQABHpIj4UZ0vvl2N-cZGtYA4SQrLXLq...