Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý
Hậu Khảo cổ
Đi và tìm trong đất... thấy người :)
BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC
SÀI GÒN 50 MÙA QUA...
https://doanhnhansaigon.vn/ky-su-sai-gon-50-mua-tet-qua-315818.html
Tùy bút, Nguyễn Thị Hậu
Kể từ mùa hè 1975 tôi theo gia đình từ Hà Nội trở về Sài Gòn - Nam bộ, quê
hương tôi được nghe ba má tôi nhắc suốt những năm dài “ngày Bắc đêm Nam”, đến
nay tôi đã sống ở TP. HCM 50 năm rồi!
Năm mươi năm, thời gian đó gần hết một đời người. Nhưng với một thành phố
có trên 300 năm tuổi, hay hơn 3000 năm của một vùng đất.... thì khoảng thời
gian đó chưa thể gọi là dài! Nhìn lại, Sài Gòn – TP. HCM để lại những gì trong
tâm tưởng của thế hệ trưởng thành vào thời hậu chiến, như tôi?
Một lần tôi ngồi quán cà phê với bạn. Hai đứa cùng được
sinh ra ở Hà Nội cùng sống ở Sài Gòn từ mấy chục năm nay... qua thời đại học rồi
cùng lập gia đình, cùng vượt qua thời bao cấp cực nhọc, chúng tôi vẫn gắn bó với
nhau dù có khi đến vài năm không gặp mặt. Ngày cuối năm ngoài đường xe cộ như
nêm, mọi người tất bật. Trong quán vắng miên man nhạc Trịnh, bạn chợt thốt lên,
nhớ Sài Gòn quá... Câu nói của bạn giúp tôi hiểu rõ hơn cảm giác bồi hồi không
lý giải được: đúng rồi, tôi cũng nhớ Sài Gòn dù đang ở giữa Sài Gòn, lạ không?
Không chỉ một lần như vậy, mà mỗi khi nhắc đến Sài Gòn, nhiều người luôn bắt
gặp cảm giác bồi hồi như thế, dù bạn từ đâu đến thành phố này...
***
Sài Gòn là địa
danh mang tính lịch sử - văn hóa, từ khoảng cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20 địa
giới mở rộng dần theo chính nhu cầu phát triển của thành phố. Quá trình khai
sinh Sài Gòn là sự hội tụ của những người “nhập cư” từ nhiều vùng miền, trong
những giai đoạn lịch sử khác nhau. Quá trình tụ cư cho thấy vùng đất lành Sài Gòn đã là
điểm đến, nơi dừng chân, nơi sinh cơ lập nghiệp của biết bao “đàn chim” từ nhiều
vùng đất và nguồn gốc xuất xứ khác nhau. Chỉ kế đến những năm cuối thế kỷ 20 đầu
thế kỷ 21, Sài Gòn đã dung chứa trong nó hàng triệu con người, cũng chia sẻ
hàng triệu cơ hội kiếm sống trong đó có hàng ngàn cơ may thành đạt, giàu có. Hiện
nay Sài Gòn là thành phố đông
dân nhất nước và cũng là nơi có người nhập cư nhiều nhất.
Ở Sài Gòn có rất nhiều “hội đồng hương”, gần
như có đủ tất cả các tỉnh thành thậm chí có cả hội đồng hương cấp huyện. Người
các tỉnh thành vào đây
giữ được “cá tính văn hóa” riêng của quê hương mình, nhất là ngôn ngữ và ẩm thực
là hai yếu tố được nhận biết rõ ràng nhất. Ở Sài Gòn tiếng nói các vùng miền
hòa lẫn vào nhau, không phân biệt “quê” hay “thành”, không kỳ thị “Sài Gòn” hay
“tỉnh”. Chỉ cần buổi sáng ngồi ở các quán cà phê bạn có thể nghe thấy giọng nói
cả ba miền Nam Trung Bắc, có thể nhận ra tiếng miền Tây, tiếng Hà Nội, tiếng Quảng,
tiếng Huế, chưa kể bây giờ còn có nhiều người Hàn, người Nhật, người các xứ Âu
Mỹ đến làm ăn tại Sài Gòn.
Các món ăn ở
Sài Gòn thì chẳng thiếu đặc sản của nơi
nào: Bánh Huế, cơm hến, mì Quảng, bùn bò Huế, phở Hà Nội, bánh đa cua, nem
vuông Hải Phòng, bún đậu mắm tôm “đặc Bắc”, bún mắm, bún nước lèo miền Tây, hủ tíu Sa
Đéc, Mỹ Tho, Nam Vang, bún riêu bắc, bún riêu nam, bánh xèo “Bà Mười Xiềm” Cần
Thơ, bánh khọt Cô Ba Vũng Tàu, cơm lam thịt trâu gác bếp Tây Bắc… Quán ăn Tây,
Nhật, Hàn, Thái, tiệm Fast Food khắp nơi…
Ẩm thực và ngôn ngữ ở Sài Gòn như một “liên hiệp quốc” chung sống hòa
bình, thân ái, chẳng ai muốn loại trừ ai, mà có muốn thì cũng không được, miễn là phong cách làm ăn “như người
Sài Gòn” thì sẽ tồn tại.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Sài Gòn đã dung
nạp, tiếp nhận nhiều
các yếu tố văn hóa như phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn
giáo, tiếng nói, ẩm thực, trang phục… của các cộng đồng dân cư khác nhau. Nhưng quan trọng là
Sài Gòn không làm thay đổi những nét văn hóa riêng của từng cộng đồng mà nuôi dưỡng tất
cả để tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hóa Sài Gòn. Tôn trọng sự đa dạng, Sài Gòn có sự bao
dung làm nên “cái nôi” cho những tài năng đến
đây và tỏa sáng.
Như nhiều
nhạc sĩ, ca sĩ người
Hà Nội vào sinh sống ở Sài Gòn giữ được “chất Hà Nội” qua tác phẩm, qua giọng
hát, qua phong cách sống. Có lẽ nhờ đó mà có rất nhiều bài hát hay về Hà Nội đã
được sáng tác tại đây,
nhiều nhạc sĩ, ca sĩ thành danh từ đô thị này. Đó là còn chưa kể đến những nhân tài,
trí thức của các lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật khác, các lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, kinh tế... bên cạnh hàng triệu con người bình dị đến đây “kiếm sống”,
nhưng rồi dần đần đã trở thành “người Sài Gòn”.
Nhiều lần tôi
thử lý giải về sự bao dung nâng đỡ của
Sài Gòn đối với những gì còn yếu thế, mới mẻ, thậm chí còn chưa kịp định hình. Không thể không bắt đầu từ lịch sử. Là
vùng đất chưa kịp có ký ức lâu dài nếu ta coi yếu tố thời gian lịch sử là quan
trọng nhất trong việc hình thành ký ức và truyền thống: Sài Gòn 300 năm lại là
vùng đất “làm ăn”, trung tâm kinh tế, khác tính chất trung tâm chính trị của
Thăng Long hay Huế. Do không chịu sự níu kéo của truyền thống quá sâu nặng nên
dễ tiếp nhận cái mới, đồng thời chấp nhận và thích nghi để không “đồng hóa” cái
mới, cái khác. Người Sài Gòn có tính thực tế cao nhưng không bị chuyển thành sự
tư lợi mà ngược lại tính cộng đồng cũng cao, việc xã hội, Làm “việc nghĩa” được coi
là chuyện bình thường. Lấy
hiệu quả việc “làm ăn” là quan trọng nhất, mọi cái khác coi
là “chuyện nhỏ”,
“làm ăn được” còn để mình “sống được” và có
thể chia sẻ, đùm bọc người khác.
Nói chuyện với
nhiều người bạn Mỹ, các bạn đều nhận xét rằng, có gì đấy khá giống nhau giữa sự
hình thành, phát triển của
vùng đất Sài Gòn với nước Mỹ nói chung và với những
thành phố lớn như NewYork chẳng hạn. Và nếu như ở nước Mỹ có một ngày Thanksgiving thì tôi luôn mong rằng, những
người đã đến Sài Gòn sinh sống làm ăn, hãy có một lần thôi, nhớ đến sự rộng rãi
sẻ chia và tình nghĩa của thành phố và con người vùng đất này.
***
Mùa Giáng Sinh năm nay thời tiết Sài Gòn thật tuyệt, buổi sáng không khí se
se lạnh, trưa chiều vẫn nắng nhưng không nóng, dù mọi năm thời gian này Nam bộ
đã vào mùa nắng gay gắt. Sáng nay đi có việc qua khu vực trung tâm thành phố, tôi
ngắm nhìn cuộc sống sôi động diễn ra trên từng con đường, đắm mình trong không
khí Giáng Sinh rộn rã, chợt nhận ra Sài Gòn vừa quen vừa lạ... Những nơi chốn
quá quen thuộc luôn mang lại cho sự bất ngờ, nếu một ngày nào đó mình bỗng
nhiên “sống chậm”. Sài Gòn luôn là một nơi như thế.
Đặc biệt những ngày này, khu vực chợ Bến Thành đến ga Metro trung tâm luôn
đông đúc. Cả tháng nay tuyến metro số 1 đã chạy thử, hôm nay là ngày vận hành
chính thức nên nhiều người dân thành phố náo nức “đi cho biết”. Dù tôi từng nhiều
lần đi metro ở nước ngoài nhưng chứng kiến niềm vui của bà con, cũng là chứng
kiến một thành quả lớn của thành phố, tôi thật vui và xúc động...
Tuyến metro số 1 hoàn thành đánh dấu sự khởi đầu mới. TP. HCM sẽ bước tiếp
những bước đi thần kỳ trong 50 năm nữa! Bởi vì sức sống Sài Gòn luôn được nuôi
dưỡng từ sự cởi mở, bao dung, bởi vì dù bao nhiêu thời gian qua đi thì tôi vẫn
tin rằng, Sài Gòn – TP. HCM luôn là “vùng đất lành” của biết bao con tim và khối
óc ở cả trong và ngoài nước.
TP. Hồ Chí Minh, 22.12.2024
KÝ ỨC NHỮNG MÙA TẾT
https://tuoitre.vn/ky-uc-nhung-mua-tet-20250112135717024.htm

Nguyễn Thị Hậu
Vào
khoảng thời gian cuối năm, dù bận rộn đến đâu thì mỗi người cũng dành cho mình
những phút giây sống chậm, khi ký ức của những mùa tết xa xưa lần lượt quay về…
Cái
tết đầu tiên tôi có mặt trên đời, năm ấy Hà Nội rét đậm. Tháng chạp mưa phùn
gió bấc, những con phố ẩm ướt những cây bàng như muốn mọc rêu trên cành khẳng
khiu trong chiều đông xám ngoét. Bỗng một sáng kia chồi nhu nhú lên báo hiệu
hơi ấm mùa xuân đã về, rồi chỉ tuần sau lộc non xanh mướt… Trên phố hoa tết rực
rỡ đầy sức sống. Tết ấy, gia đình tôi vui hơn vì sự có mặt của cô con gái út là
tôi. Tết ấy, sau mấy năm tập kết ra Bắc, lần đầu trong nhà có một cành đào rực
rỡ, ba má tôi phải quen cảnh “ngày Bắc đêm Nam” vì đường về quê đã trở nên xa
thăm thẳm...
Từ
1954 đến năm 1975 trở về quê hương Nam bộ, gia đình tôi đã có 21 cái Tết trên đất
Bắc. Ba tôi thường ăn Tết xa nhà, ông cùng các nghệ sĩ Nam bộ đi khắp đất nước biểu
diễn phục vụ đồng bào, có năm ông đi dọc đường Trường Sơn biểu diễn tại các
binh trạm phục vụ bộ đội, thương binh… Vì vậy ngày Tết thường chỉ có mấy mẹ con
tôi cùng láng giềng trong khu tập thể, phần lớn các gia đình cũng vắng đàn ông.
Nhưng Tết nào ba tôi không đi xa thì nhà tôi như “câu lạc bộ Thống nhất” vì có
nhiều chú bác tập kết ghé về ăn Tết. Ngày Tết của gia đình tôi bao giờ cũng thấm
đẫm hương vị Tết Nam bộ mang đặc trưng rất riêng, ấy là mùi bánh tét bánh ít gói
bằng lá chuối, mùi thịt kho hột vịt nước dừa, dưa giá củ kiệu và nhiều món ăn
Nam bộ khác.
Cũng
như mọi gia đình ở miền Bắc lúc ấy, ngày thường có thể rất thiếu thốn nhưng
ngày Tết phải đủ đầy nhất những gì có thể mua sắm được. Gần Tết là việc xếp
hàng mua các loại thực phẩm bánh mứt kẹo theo tem phiếu, mỗi nhà được một túi
nilon trong có hộp mứt bằng giấy bìa vẽ cành đào, phong pháo đỏ, gói kẹo bi, gói
bánh, vài bao thuốc lá, miếng bóng (da lợn khô), gói miến, gói bột ngọt nhỏ xíu.
Chỉ thế thôi nhưng có cái túi quà Tết trong nhà là thấy Tết đã về. Rồi chị em
tôi chia nhau xếp hàng mậu dịch mua đậu xanh, gạo nếp, nước mắm… Củi để nấu
bánh phải lo kiếm để dành từ vài tháng trước. Ngày nghỉ má tôi ra chợ ngoại ô
Hà Nội để tìm mua lá chuối về gói bánh tét. Những năm sơ tán về nông thôn thì má
tôi chỉ đi một vòng quanh xóm là có thể xin được một ôm đầy các tàu lá chuối to
đẹp, không phải lo thiếu khi gói bánh tét.
Ngày
Tết càng gần má tôi càng tất bật. Mỗi khi đi làm về trong cái giỏ xe có thêm bó
măng khô thơm mùi nắng, gói miến dong thơm mùi đất ẩm… Có khi còn mua được ở chợ
quê mấy cân gạo nếp thơm mùi rơm mới, cân đậu xanh hạt tròn đều xanh mướt. Có
năm ba tôi đi công tác Tây Bắc mang về một xâu nấm hương mộc mạc mùi rừng núi. Khoảng
qua rằm tháng Chạp các cửa hàng gia công bánh “quy gai quy xốp” bắt đầu đông
khách từ sáng đến tối mịt. Mỗi người mang một túi nào bột nào đường với mấy quả
trứng, có khi thêm cục bơ bé xíu. Sau cả ngày xếp hàng chờ đợi thì mang về một
túi nilon đầy những chiếc bánh thơm phức ngọt ngào. Bọn trẻ ở nhà nóng ruột chờ
đợi để được ăn thử mấy chiếc bánh vụn, chao ôi là ngon!
Những
ngày sát Tết khu chợ Đồng Xuân – Bắc Qua, chợ hoa Hàng Lược đông người chen
chúc mua sắm… Ngoài đường rộn ràng những chiếc xe đạp cột sau xe mấy bó lá
dong, khi là cành đào sớm, trong khu tập thể nhà nhà rộn ràng gói bánh. Mùi đậu
xanh chín, mùi thịt ướp tiêu hành, mùi khói bếp, hơi nước từ nồi bánh đang sôi
tỏa ra một mùi thơm “tổng hợp” của Tết. Đêm tới bếp đỏ lửa, hai ba nhà chung
nhau nấu một nồi bánh, trẻ con thì náo nức từ ngày nghỉ tết, mong được khoe quần
áo mới còn cất trong cái rương gỗ sực mùi băng phiến… Chiều ba mươi Tết nhà nào
cũng nấu nồi nước mùi già, nước bồ kết để tắm gội “tất niên”. Mưa
phùn như rây lạnh buốt, trong nhà ấm áp hương thơm nhang khói, bình hoa thược
dược rực rỡ cắm lẫn vài cành violet tím và lay ơn trắng đặt trên bàn nước giữa
nhà… Mọi người đi chúc tết bà con, láng giềng, ít đi chơi xa…
Qua
đúng ba ngày Tết sinh hoạt trở lại bình thường, dư vị ngày Tết có chăng chỉ là
những cành đào nở muộn…
***
Mùa
xuân Bính Thìn 1976, mùa xuân thống nhất đầu tiên tràn ngập nụ cười và nước mắt.
Khắp mọi miền đất nước gia đình nào cũng mong ngày đoàn tụ sum họp. Năm
đó từ dịp Giáng sinh không khí Sài Gòn bỗng nhiên se lạnh, trên đường phố Sài
Gòn xuất hiện những chiếc áo gió, khăn quàng, thậm chí cả áo len áo khoác khiến
tôi tưởng như mình còn ở mùa đông Hà Nội. Những ngôi nhà thờ chăng đèn kết hoa
rực rỡ. Chợ Bến Thành, Chợ Bình Tây và nhiều chợ lớn nhỏ trong thành phố đèn
sáng suốt đêm, hàng hoá ê hề thượng vàng hạ cám có hết… Hàng đoàn ghe hàng hoá,
trái cây, ghe bông từ miền Tây lên… đậu kín bến Bình Đông và nhiều kinh rạch
trong thành phố.
Gia
đình tôi được ăn cái Tết đầu tiên ở quê hương sau những năm dài xa cách. Mấy
ngày Tết ba má tôi đều phải trực cơ quan, vì vậy chị em tôi về Cao Lãnh ăn Tết
với gia đình bên ngoại. Ngày 23 tháng Chạp chúng tôi ra “Xa cảng miền Tây” mua
vé xe về quê. Trên đường quốc lộ nườm nượp xe hơi xe máy, sau bao năm chiến
tranh loạn lạc, cũng như chị em tôi, hoà bình rồi nhiều người mới lần đầu về
quê ăn Tết.
Khi
ấy Cao Lãnh còn là một thị xã nhỏ, chỉ có dãy phố ven sông và ngôi chợ là nhộn
nhịp vào buổi sáng. Nhưng từ rằm tháng Chạp thì sáng sớm đến đêm khuya trên sông
Cao Lãnh ghe xuồng qua lại không ngớt, ghe trái cây, bông kiểng nhiều nhất, rồi
ghe chiếu mới, ghe than ghe bếp ông lò... chiều tối đèn điện sáng rực cả một
khúc sông. Các gia đình ở quê còn tự làm các loại bánh mứt ăn tết: bánh kẹp,
bánh bông lan, bánh phồng, mứt dừa mứt tắc… Đường làng thơm nức mùi bánh mứt
ngọt
ngào.
Ngày
mùng hai Tết hai chị em tôi theo xe đò lên Sài Gòn để hưởng mấy ngày Tết thành
phố. Nhiều đường phố vẫn còn vắng nhưng khu trung tâm thì náo nhiệt suốt ngày.
Những ngôi nhà mặt tiền treo cờ đỏ sao vàng và cờ nửa xanh nửa đỏ sao vàng. Chợ
hoa Nguyễn Huệ mở từ ngày 23 Tết đã kết thúc vào chiều ba mươi, trả lại con đường
rộng rãi thoáng đãng tràn gió mát từ sông Sài Gòn qua những kiot bán hoa, văn
phòng phẩm, báo chí, đồ lưu niệm... Thương xá Tax, bùng binh cây liễu và đài
phun nước, trước cửa Uỷ ban nhân dân… tấp nập người dạo chơi, chụp hình, rất
nhiều áo dài xen lẫn quân phục bộ đội. Nhiều người chở cả gia đình trên chiếc
xe gắn máy, lá cờ gài trên tay lái, chùm bong bóng nhiều màu cầm tay chạy vòng
vòng qua các đường phố. Thỉnh thoảng có chiếc xe jeep cắm cờ chạy trên đường phố,
trên xe là mấy anh bộ đội giải phóng quần áo tinh tươm nai nịt gọn gàng.
Thảo
cầm viên Sài Gòn là nơi tụ hội náo nhiệt nhất. Những ngày Tết không chỉ có người
Sài Gòn mà người các tỉnh lên thành phố đều muốn “vô sở thú” vì trong đó có nhiều
loài hoa đẹp, thú lạ, đủ loại hàng quán, lại còn có xiếc mô tô bay, có thợ chụp
hình dạo lấy ngay, vẽ chân dung, cắt giấy hình người... Còn trong vùng Chợ Lớn
thì đường phố đỏ xác pháo, nhà nào cũng câu đối đỏ, đèn lồng và hình rồng trang
trí ở cửa. Các ngôi chùa nghi ngút khói nhang suốt mấy ngày Tết, người đến lễ
Phật cầu may đông đúc nhộn nhịp, ra về ai cũng cầm trên tay một cây nhang lớn lấy
lộc đầu năm. Hàng quán ở Chợ Lớn từ đại lộ đến hẻm nhỏ bán suốt ngày đêm.
Những
năm sau đó cả nước lâm vào tình trạng khó khăn, thiếu thốn. Tình trạng “ngăn
sông cấm chợ” làm cho có lúc Sài Gòn còn thiếu đói hơn Hà Nội khi trước… Mỗi
cái Tết là cả nhà phải cùng gom góp tiêu chuẩn của từng người. Ba tôi ghi trong
nhật ký: Tết 1985, nhờ có “ba lợi ích” nên năm nay ăn Tết đỡ hơn mọi năm.
Theo thứ tự “đóng góp” thì nhiều nhất là vợ chồng thằng Hai vì làm kinh doanh,
rồi đến ba má vì có tiêu chuẩn thành phố hỗ trợ, cuối cùng là con út làm cô
giáo!
***
Phải
đến sau 1990 chế độ bao cấp mới dần bị xoá bỏ, đời sống xã hội hồi phục, thể hiện
rõ nhất ở những dịp năm hết Tết đến. Cũng từ đó Tết cổ truyền đã có nhiều biến
đổi, từ “truyền thống, hướng nội” sang “hiện đại, hướng ngoại”. Đời sống xã hội
và sinh hoạt gia đình ở thành phố hay thôn quê đều thay đổi ít nhiều.
Ở các thành phố lớn với nhịp sống đô thị và công
nghiệp, tết với ý nghĩa đón chào năm mới đã đến sớm hơn từ dịp Noel và Tết
dương lịch. Nhưng các đô thị cũng là nơi có rất nhiều người nhập cư nên ngày Tết
còn nhắc nhở ý nghĩa sum họp gia đình. Vì vậy chuyện tàu xe “về quê ăn tết” là
sự quan tâm chung từ mấy tháng trước, cao điểm trong tháng chạp. Rồi từ ngày
“ông Táo về trời” trên các nẻo đường đi về các tỉnh tấp nập xe đò lớn nhỏ chạy
suốt ngày đêm, xe lửa tăng chuyến mà vẫn kín hết các toa, sân bay đông nghẹt từ
sáng sớm đến đêm khuya, cùng hàng đoàn người chạy xe máy trên các quốc lộ… Các thành phố ngày Tết
vắng hơn, yên tĩnh lạ lùng…
Ngày
càng có nhiều dịch vụ cho ăn Tết và chơi Tết, từ các loại thực phẩm đến các
tour du lịch. Ở đâu các siêu thị, các chợ cũng bán những giỏ quà tết từ sớm, mẫu
mã bao bì ngày càng đẹp và hiện đại, có đủ mọi giá tiền để
đáp
ứng nhu cầu biếu tặng, mang về quê… Đồ ăn thức uống không phải lo lắng mua sắm như
trước vì chỉ cần đi siêu thị một buổi là có đầy đủ từ đồ hộp đồ khô đến hàng
tươi sống... Hương vị ngày Tết dường như không còn ngon như xưa vì “thịt mỡ
dưa hành bánh chưng mứt kẹo” ngày thường muốn ăn lúc nào cũng có. Dường như sự
bận rộn của lo lắng, những nghĩa tình trong thời thiếu thốn, niềm vui ấm áp khi
sum họp gia đình… đang mất dần theo ký ức của thế hệ tôi. Tất cả những điều đó
làm cho không khí Tết nay có một chút ngậm ngùi vì cái vẻ “truyền thống mà hiện
đại” của nó.
Những
thay đổi của Tết thấy rất rõ ở TP. Hồ Chí Minh – một đô thị có quá trình “hiện
đại hóa” nhanh chóng. Người Sài Gòn trọng lễ nghĩa nhưng không quá câu nệ chuyện
phải đi thăm viếng họ hàng vào dịp Tết, họ có thể đến thăm vào trước hay sau Tết
miễn là thuận tiện cho cả hai bên. Khác với Hà Nội, người Sài Gòn thường đi
chơi trong những ngày nghỉ, ngày tết: đến các khu vui chơi giải trí, đi xem
phim nghe ca nhạc, đi ăn hàng quán, bây giờ là đi du lịch, tham quan Đường Hoa,
Đường Sách là “phong tục” văn hóa mới của người Sài Gòn... Nhiều hoạt động văn hóa được tổ chức, lễ hội
được phục hồi thể hiện sự bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống đồng thời
thu hút khách nước ngoài.
Đặc
biệt ở TP.HCM vào dịp Tết có
những nhóm gia đình, bạn bè rủ
nhau đi đến những vùng sâu vùng xa, nơi còn nhiều người khó khăn. Họ chia sẻ với
bà con những món quà Tết thiết thực, tặng người già trẻ nhỏ những bộ quần áo mới,
“của ít lòng nhiều” thể hiện tinh thần tương thân tương ái của người Sài
Gòn.
***
Tết
truyền thống đã thay đổi theo sự đổi thay của xã hội, mỗi năm nhìn lại dù ký ức
níu giữ đến đâu thì cũng không ai muốn quay lại những cái Tết thời bao cấp! Tết
nay là tết của năm thứ 50 đất nước hoà bình – thống nhất. Hai thế hệ đã được
sinh ra và lớn lên từ ngày đất nước thoát khỏi binh đao. Nếu thế hệ ông cha có
công mang lại nền hoà bình thì thế hệ sau 1975 là thế hệ xây dựng đất nước, đó
là các thế hệ rường cột của hôm nay và ngày mai. Mỗi thế hệ có trọng trách
riêng, làm tròn trọng trách của mình, tôn trọng vai trò của thế hệ sau, như vậy
mới có thể giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp.
Sài Gòn, 24/10/2024
KHƠI THÔNG DÒNG DI SẢN TỪ BẢO TÀNG
https://nguoidothi.net.vn/ve-can-tho-xem-cam-thi-46872.html
Từ khi Luật Di sản Việt Nam ra đời (2001) đến nay hệ
thống bảo tàng ngoài công lập với nhiều loại hình khác nhau đã dần dần hình
thành. Hệ
thống này có các loại hình bảo tàng về khảo cổ học (cổ vật...), dân tộc học,
thiên nhiên, nghệ thuật, kỹ thuật, lịch sử (lịch sử chiến tranh…), con người,
nhân vật và gia đình… Có một số bảo tàng mang tính chất tổng hợp, ở đó trưng
bày về nhiều đối tượng/loại hình di sản khác nhau, tùy theo mối quan tâm riêng
của nhà sưu tập.
Tuy nhiên từ nhiều năm nay, trong những chuyến khảo sát của tôi ở các tỉnh thành trong cả nước, tôi luôn nhận thấy một thực tế. Đó là, số lượng bảo tàng ngoài công lập vẫn còn quá ít ỏi so với tiềm năng, trữ lượng những di sản văn hóa đang được nhiều cá nhân, cộng đồng lưu giữ hoặc sở hữu. Mỗi địa phương đều có các nhà sưu tập còn chưa “xuất đầu lộ diện”, mặc dù trong giới sưu tầm cũn
g như giới bảo tàng có thể đã rất “rành
nhau”.
Gần đây nhất tôi có dịp đến thăm nhà sưu tập Nguyễn An Hà
và Bảo tàng Cầm Thi tại thành phố Cần Thơ. Nhà sưu tập Nguyễn An Hà – tính về
tuổi tác là thuộc thế hệ thứ ba những nhà sưu tập cổ vật ở Nam bộ - mà thế hệ đầu
tiêu biểu là nhà văn hóa Vương Hồng Sển. Đây là thế hệ lớn lên sau ngày đất nước
hòa bình thống nhất, có nhiều cơ hội tiếp cận nhiều nguồn tài liệu, hiện vật kể
cả những tài liệu quân sự, chính trị mà do trong một thời gian dài, loại tư liệu
hiện vật này chưa được đánh giá đúng giá trị lịch sử - văn hóa và khoa học. Điều
này có thể nhìn thấy ở khối lượng lớn hiện vật đa dạng về loại hình và chất liệu,
tính chất và niên đại... mà nhà sưu tầm Nguyễn An Hà đang lưu giữ.
Ngôi nhà anh ở có khuôn viên rộng rãi nên anh đã sử dụng
một phần thành nơi trưng bày di vật thời chiến tranh: những lô cốt, công sự của
lính Mỹ được phục dựng lại tỷ lệ 1/1 bằng vật liệu và hiện vật gốc như súng, đồ
dùng sinh hoạt, các loại quân phục và trang thiết bị khác... Ngoài ra còn có ba
chiếc xe tải lớn đã sử dụng trong chiến tranh cũng được anh đưa về trưng bày và
bảo quản tại đây. Cũng trong khuôn viên này còn có những chiếc cổng xưa đúc bằng
gang có chi tiết hoa văn độc đáo với phong cách trang trí thời Pháp. Đó là những
chiếc cổng của các công trình nhà xưa, dinh thự nổi tiếng quanh vùng được anh
sưu tầm từ rất sớm.
Trong ngôi nhà của anh Nguyễn An Hà nơi nào cũng như “kho
hiện vật” mới tạm sắp xếp còn chưa kịp phân loại một cách có hệ thống theo chất
liệu hay loại hình, niên đại. Anh giới thiệu với chúng tôi bộ sưu tập tranh của
họa sĩ Thái Đắc Phong đã được trưng bày tại TP. Hồ Chí Minh trong không gian
triển lãm De La Sot của nghệ sĩ Xuân Phượng – người được mệnh danh là “bà đỡ
mát tay” đưa hội họa Việt Nam ra thế giới. Họa sĩ Thái Đắc Phong sinh sống ở miền
Tây, ông từng hoạt động qua hai cuộc kháng chiến. Cơ may đưa anh Nguyễn An Hà gặp
gỡ ông và từ đó, những bức tranh của ông nằm im nhiều năm nay được “sống dậy”,
bước ra với người thưởng lãm, nhận được rất nhiều lời đánh giá cao từ các họa
sĩ, các nhà sưu tập và công chúng. Qua cuộc triển lãm này Nguyễn An Hà cũng được
nhìn nhận “là người gìn giữ ký ức và thời gian, qua công lao bảo tồn những di sản
văn hóa nghệ thuật của một vùng đất”, vì anh không chỉ có trong tay sưu tập tranh của họa sĩ Thái Đắc
Phong mà còn có tranh của một số họa sĩ nổi tiếng khác.
Cũng như một số nhà sưu tập phía Nam, anh Nguyễn An Hà
cũng có những sưu tập hiện vật thời kỳ trước 1975 kéo dài đến thời bao cấp thập
niên 1989 – 1990. Mấy chục két nước ngọt còn đóng nguyên chai nhãn hiệu phổ biến
như Chương Dương, bia Con Cọp, những vật dụng xưa cũ khác như máy hát, xe
honda, xe xích lô máy, máy may... Một “kho” áo dài xưa cùng hình chụp chủ nhân
trong bộ quần áo đó... Một thời đã qua với những sinh hoạt đời thường bỗng “sống
dậy” trong ký ức của bất cứ ai nhìn thấy những đồ vật quen thuộc này. Đặc biệt với
người nghiên cứu văn hóa xã hội thì những tập báo và tạp chí cũ, trong đó có chồng
Báo Xuân có hình bìa được các họa sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn thể hiện, sưu tập các
tờ rơi giới thiệu của các rạp chiếu phim... vô cùng hữu ích. Đó là các bộ báo quý
hiếm như An Hà báo (của hai tỉnh An Giang – Hà Tiên thời chống Pháp), Gia Định
báo, Nông cổ mín đàm... Từ sưu tập báo chí này, vào năm 2023 anh Nguyễn An Hà
đã được Bảo tàng Báo chí Việt Nam mời dự Tọa đàm trưng bày “Chuyên đề báo Tết
1865 – 2000”.
Trong “kho mở” của nhà sưu tập Nguyễn An Hà còn có rất
nhiều loại hình hiện vật khác: những bức hình chân dung cá nhân, gia đình, nhiều
loại hồ sơ giấy tờ như các bản vẽ công trình trường học, nhà máy, dinh thự, kể
cả bản vẽ thiết một đoạn đường xe lửa hay một dòng kinh xáng... Tất cả được anh
Hà sưu tầm từ những chồng giấy tờ, hồ sơ bị bỏ đi, nhặt nhạnh từ dưới tầng hầm
các tòa nhà bị đập bỏ để xây mới... cho thấy sự tinh tường của nhà sưu tập, sớm
nhận biết giá trị độc đáo của những thứ “ve chai” và kiên trì lưu giữ. Nay những
hiện vật đó đã trở thành một phần của lịch sử đời sống của thành phố Cần Thơ
nói riêng và Nam bộ nói chung. Đó là chưa kể đến loại hình cổ vật. Nhìn một số
“gốm Cây Mai” ở đây tôi đã phải hỏi ngay xem anh còn lưu giữ những gì nữa? Tiếc
là phần lớn sưu tập này anh đã trao đổi để có kinh phí sưu tầm loại hiện vật
khác. Đặc biệt anh còn có sưu tập tài liệu hiện vật của một số nhân vật thuộc
lĩnh vực lịch sử quân sự. Gần đây anh cũng đã cung cấp cho một số nhà nghiên cứu
về lĩnh vực này.
Có thể nói, hiện vật của nhà sưu tập Nguyễn An Hà mang
tính tổng hợp nhưng đều được sưu tầm có chủ đích, vì vậy tuy chưa trưng bày “ra
tấm ra món” nhưng anh đã có sự hiểu biết sâu sắc về từng sưu tập, thể hiện qua
cách anh giới thiệu và trao đổi với chúng tôi. Dù Bảo tàng Cầm Thi chỉ mới phục
vụ chủ yếu là khách tại khu du lịch sinh thái này, nhưng nội dung của bảo tàng
– nếu được thể hiện bằng một hệ thống trưng bày có thể không lớn nhưng khoa học
và chọn lọc – thì hoàn toàn có khả năng tiếp đón một lượng khách lớn hơn và đa
dạng hơn.
Theo sự hiểu biết của tôi thì thực trạng sưu tầm, bảo quản
và giới thiệu các sưu tập hiện vật tại Bảo tàng Cầm Thi của nhà sưu tập Nguyễn
An Hà không phải là cá biệt. Tôi từng được tiếp xúc với những nhà sưu tập cũng
có số lượng hiện vật rất lớn, theo nhiều chủ đề khác nhau, bằng nhiều chất liệu
nhiều loại hình... Nhưng hiện nay vẫn chưa giới thiệu rộng rãi với công chúng.
Qua trao đổi với các anh chị chủ nhân sưu tập, điều đầu
tiên có thể nhận biết là các nhà sưu tập có thể có nhiều loại hiện vật khác
nhau. Sự phong phú của các loại hiện vật “thời đã qua” tôi tạm chia làm bốn chủ
đề chính: 1/cổ vật, 2/hiện vật dân tộc học, 3/hiện vật thời chiến tranh, 4/hiện
vật thời bao cấp. Mỗi chủ đề có nhiều nội dung khác nhau dựa vào việc phân chia
chất liệu, loại hình... Có những hiện vật có thể nằm ở nhiều nội dung, hoặc thuộc
về các chủ đề khác nhau. Sự đa dạng của hiện vật phản ánh sự đa dạng của đời sống
xã hội ở mỗi một địa phương, vùng miền, thậm chí phản ánh cả những hiện tượng
mà lịch sử chưa ghi chép.
Đây là điểm khác biệt đầu tiên so với các bảo tàng công lập
– nơi thường có một chủ đề cơ bản là “truyền thống lịch sử” từ thời nguyên thủy
đến hiện đại, mang tính khái quát. Vì vậy có sự trùng lắp về nội dung giữa nhiều
bảo tàng địa phương. Còn ở các sưu tập cá nhân có thể trưng bày theo nhiều “câu
chuyện” khác nhau, mang đến sự gần gũi và thân thiện hơn với người xem.
Thứ hai, đó là sự đam mê của các nhà sưu tập, đến mức có
thể “hy sinh, đánh đổi” nhiều thứ khác để có bằng được những hiện vật quý hiếm
hoặc yêu thích. Cơ chế tài chính cá nhân tạo điều kiện cho các nhà sưu tập linh
hoạt trao đổi hay mua bán hiện vật, ngoài ra họ còn có không gian để lưu giữ, tạm
thời bảo quản hiện vật ở mức tối thiểu. Nhiều nhà sưu tập dành phần lớn không
gian sắp xếp hiện vật như “kho mở” theo từng chủ đề, đây là cách thức phù hợp
nhất hiện nay để có thể giới thiệu các sưu tập hiện vật. Đồng thời cũng giúp
các nhà sưu tập “kiểm kê” biết còn thiếu hay đã dư loại hiện vật nào có thể
trao đi đổi lại. Từ đó khi xây dựng bảo tàng có thể lựa chọn trưng bày trước nội
dung độc đáo, “không đụng hàng”.
Thứ ba. Để hình thành một bảo tàng thì ngoài số lượng hiện
vật, chủ đề các sưu tập hiện vật thì nguồn gốc và niên đại hiện vật là những
tiêu chí quan trọng. Không chỉ các cổ vật mới cần định tuổi mà các hiện vật
khác cũng cần có một (khung) niên đại cụ thể (sản xuất vào thời gian nào), nguồn
gốc rõ ràng (sản xuất, làm ra ở đâu), xuất xứ (tìm thấy, hoặc mua từ đâu). Tuy
nhiên, có thể nói khá nhiều hiện vật trong các sưu tập chưa có thông tin này,
hoặc có thể chủ nhân các sưu tập không tiết lộ. Tuy nhiên, hồ sơ hiện vật bảo
tàng nếu thiếu nội dung này thì việc xác định giá trị hiện vật sẽ thiếu tính khoa
học.
Thứ tư. Nhiều nhà sưu tập chỉ muốn trưng bày hiện vật như
“kho mở” mà chưa mặn mà với việc thành lập bảo tàng tư nhân, thậm chí chưa muốn
công khai sưu tập của mình. Có thể nhận thấy điều làm cho họ ngần ngại khi muốn
thành lập bảo tàng là ở thủ tục hành chính, cùng với thái độ “không nhiệt tình”
của cán bộ văn hóa địa phương. Nhiều nhà sưu tập và nhà nghiên cứu cho rằng, các
điều khoản về điều kiện cho phép thành lập bảo tàng ngoài công lập như trong Luật
Di sản văn hóa hiện nay quy định là chung chung, nhiều điều không thiết thực, bất
cập, nặng về “quản lý” mà không thuận tiện cho cá nhân, cộng đồng tham gia hoạt
động bảo tàng.
Gần đây ở nước ta đã có một số bảo tàng ngoài công lập
gây được sự chú ý của cộng đồng bởi nội dung phong phú và hình thức trưng bày
hiện đại, hấp dẫn. Khi một tư nhân hoặc tổ chức quyết định thành lập bảo tàng
thì họ đã có số vốn lớn bằng hiện vật, cơ sở vật chất và sẵn sàng đầu tư xây dựng
bảo tàng hiện đại, theo xu hướng phát triển kinh tế di sản. Làm thế nào để
“khơi thông” nguồn vốn xã hội rất lớn này là một câu hỏi quan trọng mà các cấp
quản lý ngành văn hóa cần phải tìm ra câu trả lời nhanh chóng.
Một số bìa báo Xuân xưa trong bộ sưu tập của Nguyễn An Hà.
HẾT TẾT

BIÊN GIỚI THÁNG HAI - Tác giả: HUY ĐỨC
Hôm nay 17/2/2025, đăng lại bài này của nhà báo Huy Đức (Trương Huy San), người đang trong vòng lao lý BIÊN GIỚI THÁNG HAI Tác giả: HUY ĐỨ...
-
Người Việt có một số thành ngữ và sự tích liên quan đến cá trê, như truyện Trê Cóc chẳng hạn. Câu chuyện không chỉ là việc Trê tranh giàn...
-
Một người bạn fb bất ngờ ra đi. Post bài thơ rất hay của bạn. Tôi biết Cao Hải Hà qua mạng Yahoo blog và sau là FB. Vài lần gặp Hà ở chỗ ...
-
Khi mới làm quen với FB Lặng lẽ nước Nga, tôi đã mạo muội đề nghị được xem lại bộ phim “Con đường đau khổ” – phim truyền hình 13 tập dựa t...