Nguyễn Thị Hậu - BÁO PHÁP LUẬT TPHCM XUÂN 2025
1.
Đô
thị ra đời và phát triển từ chức năng là trung tâm hành chính, chính trị, văn
hóa hay kinh tế của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ. Văn hóa đô thị là văn
hóa của các thành phố và đô thị, bao gồm một hệ thống các giá trị, niềm tin, sự
tự hào, hình ảnh, uy tín, lối
sống và
các thói quen truyền thống, qua đó tạo nên các chuẩn mực hành vi cho mỗi người
dân và cộng đồng thị dân.
Văn
hóa đô thị hiện diện
trong không gian đô thị, bao gồm các yếu tố không gian tự nhiên (vị trí, địa hình, thiên nhiên) và
không gian nhân văn (quy hoạch, hạ tầng, các công trình, cảnh quan...),
yếu tố thời gian là tiến trình
lịch sử, yếu tố dân cư và văn hoá của họ. Đó là môi trường mà ở đó, các nhóm
dân cư trở thành một tập hợp xã hội đặc biệt có văn hóa thị dân, tái tạo và
phát triển các cấu trúc văn minh đô thị, phản ánh diện mạo riêng biệt của từng
đô thị. Đánh giá “văn
hoá của một thành phố” không thể không xét đến các yếu tố gắn bó chặt chẽ với
nhau là không gian, thời gian, chủ nhân của thành phố đó.
Nếu
tính từ khi con người có mặt trên vùng đất Sài Gòn, theo các bằng chứng khảo cổ học trải
khắp từ Củ Chi – Hốc Môn – Thủ Đức đến nội thành rồi kéo đến Bình Chánh – Cần Giờ, thì thành phố này có tuổi đời đã trên 3000
năm. Cùng với cả Nam bộ, Sài Gòn không
phải là một “vùng đất mới” như như quan niệm xưa nay. Đặc biệt nếu lấy mốc 1790 thành Gia Định được xây dựng
theo kiểu phương Tây thì đô thị Sài Gòn hình thành vào loại sớm và đã phát triển liên tục trên 200 năm.
Từ nửa sau thế kỷ 19, Sài Gòn được quy hoạch và xây dựng
hiện đại hơn. Đó chính là “không gian đô thị” mới, là cơ sở hình thành “văn hoá
đô thị” mới của thành phố, cùng với sự tồn tại của không gian cư trú và các thiết
chế văn hoá cổ truyền giúp duy trì văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư.
Có thể nói ở nước ta, văn minh đô thị Sài Gòn hình thành sớm, phát triển ở mọi
khu vực, mọi nhóm dân cư.
2.
Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, trải qua những biến
cố chính trị lớn, kinh tế - xã hội thành phố có những biến đổi sâu sắc. Thời kỳ
“bao cấp” ở TP. Hồ Chí Minh chỉ khoảng 10 năm (1975 – 1985) nhưng để lại di hại
nặng nề không chỉ ở lĩnh vực kinh tế, mà còn ở cả văn hóa – xã hội. Từ 1986, cùng
với quá trình xóa dần “thời bao cấp” là thời kỳ phát triển kinh tế. Từ đó nhiệm
vụ xây dựng “môi trường văn hóa” là điều kiện quan trọng nhất để TP. Hồ Chí
Minh lấy lại diện mạo “văn minh đô thị”, tạo nền tảng cho vai trò “đầu tàu kinh
tế” cả nước, cải thiện và nâng cao chất lượng sống của mọi tầng lớp nhân dân
thành phố. Đó cũng là tiền đề cho tương lai gần, khi TP. Hồ Chí Minh có thể đạt
đến quy mô “đại đô thị” trên 15 triệu dân.
Sau năm 1975 dân cư TP. HCM có sự thay đổi lớn về số lượng
và tính chất. Một phần dân cư lâu đời rời khỏi thành phố, thay thế vào đó là những
lớp người nhập cư đến từ khắp các vùng miền cả nước. Văn hóa thành phố ngày càng
đa dạng... Tốc độ gia tăng dân số cơ học nhanh và phức tạp làm cho việc xây dựng
lối sống “thành phố văn minh hiện đại” khó khăn hơn. Kinh tế phát triển mạnh mẽ
nhưng văn hóa giáo dục chưa phát triển đúng tầm đã gây ra nhiều hệ lụy về đạo đức,
lối sống, làm tổn hại nhiều truyền thống tốt đẹp. Quá trình hiện đại hóa và xây
dựng hạ tầng cơ sở đã làm hủy hoại, biến dạng nhiều di sản văn hóa như các di
tích tôn giáo tín ngưỡng truyền thống. Đặc biệt là sự thay đổi cảnh quan và biến
mất nhiều công trình di sản thuộc về “ký ức đô thị” ở khu vực trung tâm đô thị
Sài Gòn.
Từ khoảng 2014 đến nay đã có sự chuyển biến rõ rệt trong
ý thức và hành xử của cư dân đô thị về “nếp sống văn minh đô thị”. Nhận thức về
giá trị văn hóa và ý thức gìn giữ di sản của cộng đồng ngày càng nâng cao góp
phần tác động đến những chính sách bảo tồn di sản của chính quyền thành phố. Chính
quyền và người dân có sự quan tâm và cải thiện các quan hệ xã hội theo hướng
tích cực. Đặc biệt, nét văn hóa đặc trưng nhất của Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh là
sự phóng khoáng, năng động, nghĩa tình, nhân ái vẫn được duy trì và lưu truyền
như một tài sản quý giá, “làm việc nghĩa” là tính cách của “Người Sài Gòn”, bất
kể họ đến thành phố này từ đâu và từ khi nào.
Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh là một đô thị có những đặc
trưng tự nhiên và nhân văn độc đáo. Chứng tích của quá trình lịch sử hiện diện
trong hệ thống di sản văn hóa, gồm 7 bảo tàng của thành phố và một số bảo tàng
ngành, bảo tàng tư nhân, cùng hệ thống di sản lịch sử - văn hóa. Hiện thành phố
có 185 di tích đã được xếp hạng, trong đó 02 di tích quốc gia đặc biệt (di tích
lịch sử); 56 di tích quốc gia (02 di tích khảo cổ học, 30 di tích kiến trúc nghệ
thuật, 24 di tích lịch sử); 114 di tích cấp thành phố (66 di tích kiên trúc nghệ
thuật, 48 di tích - lịch sử); Cùng với đó là hơn 130 công trình, địa điểm được
đưa vào Danh mục kiểm kê di tích lịch sử - văn hóa. Ngoài ra còn có hàng chục
ngàn công trình nghiên cứu, hàng trăm ngàn loại tư liệu báo chí tại các thư viện
và trung tâm lưu trữ... hiện nay được xếp vào loại hình di sản tư liệu.
Di sản văn hóa phi vật thể hiện diện ở thành phố có 2 di
sản được UNESCO ghi danh (hát ca trù, nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ) và 3 di
sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (Lễ hội Nghinh
Ông huyện Cần Giờ, Tết Nguyên Tiêu của người Hoa ở quận 5 và Lễ hội Khai hạ - cầu
an tại Lăng Ông Tả quân Lê Văn Duyệt quận Bình Thạnh). Ngoài ra còn nhiều sinh
hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống, lễ hội hiện đại như Đường hoa Nguyễn Huệ vào
dịp Tết, sinh hoạt văn hóa mới như các Đường Sách trên khắp địa bàn trong Thành
phố.
Hiện nay, TP. Hồ Chí Minh có 07 đơn vị nghệ thuật công lập
và 01 Trung tâm Tổ chức biểu diễn và Điện ảnh, có 01 Trung tâm Văn hóa và 07
Nhà văn hóa; 24/24 quận, huyện có Trung tâm Văn hóa, Trung tâm Thể dục Thể thao,
24/24 Nhà văn hóa Thiếu nhi; 17/24 quận huyện có Nhà văn hóa Lao động, toàn thành
phố có 5 nhà hát đáp ứng được yêu cầu của hoạt động biểu diễn và khoảng 10 sân
khấu biểu diễn các thể loại kịch, tạp kỹ. Lớp trầm tích lịch sử - văn hóa tích tụ qua hàng ngàn,
hàng trăm năm đã trở thành tài nguyên cung cấp chất liệu cho sự sáng tạo các
lĩnh vực của văn hóa – nghệ thuật, điện ảnh. Trực tiếp “hưởng lợi” là ngành
kinh tế di sản và du lịch văn hóa.
TP. Hồ Chí Minh có nhiều loại hình sản phẩm du lịch văn
hóa, bao gồm: (i) Lịch sử: Bảo tàng và di tích lịch sử; (ii) Công trình và địa
điểm văn hóa: Di tích, tòa nhà và địa điểm có giá trị văn hoá/khu vực có ý
nghĩa giá trị văn hoá; (iii) Biểu diễn: Chương trình văn hóa và biểu diễn văn
hoá và nghệ thuật; (iv) Nghệ thuật: Phòng trưng bày, bảo tàng nghệ thuật và triển
lãm mỹ thuật khác (nghệ thuật không biểu diễn); (v) Con người và văn hóa: Phong
tục tập quán, văn hóa và lối sống của người dân địa phương. Khu vực trung tâm
thành phố, những cảnh quan đô thị Chợ Lớn, các di sản kiến trúc độc đáo bước đầu
được tổ chức kết hợp với hoạt động thương mại, ẩm thực truyền thống, đồng thời
bảo tồn, dần dần phục hồi những cảnh quan văn hóa – lịch sử để phát huy tiềm
năng du lịch văn hóa từ lịch sử của thành phố.
Các loại hình biểu diễn nghệ thuật như cải lương, hát bội
hiện nay đang bị mai một, chưa xứng đáng với vai trò là “Tiêu biểu truyền thống
nghệ thuật biểu diễn Nam bộ” mà Sài Gòn là nơi tích tụ và đã phát triển đến đỉnh
cao. Nhiều sản phẩm văn hóa - nghệ thuật
khác chưa được du khách trong và ngoài nước chú ý do thiếu quảng bá phù hợp và
“hiện đại hóa” trong phục vụ. Trước 1975, Sài Gòn là nơi đầu tiên tiếp nhận, du
nhập nhiều loại hình “công nghiệp văn hóa” trên thế giới, vì vậy phát triển
công nghiệp văn hóa và văn hoá đại chúng luôn là một thế mạnh của đô thị này. Chính
quyền thành phố đã xác định trong thời gian tới, bằng nhiều phương thức “xã hội
hóa” sẽ xây dựng các “sản phẩm bom tấn” từ nguồn “tài nguyên văn hóa bản địa”. Vừa
qua trong “Lễ hội sông nước” đã có một chương trình biểu diễn thực cảnh rất hiện
đại và hấp dẫn, tạo dấu ấn và thu hút nhiều đối tượng du khách. Từ kinh nghiệm
này sẽ định kỳ tổ chức những sự kiện văn hóa nghệ thuật mang tầm quốc tế như
triển lãm Mỹ thuật, liên hoan Phim, Hội chợ sách, lễ hội quốc gia... để từ đó trở
thành “thương hiệu văn hóa” cho thành phố.
3.
Mỗi đô thị có quá trình hình thành và phát triển theo quy
luật chung nhưng cũng có những đặc điểm riêng từ nguồn gốc cộng đồng dân cư, từ
tích tụ văn hóa và truyền thống lịch sử… Tất cả góp phần tạo thành vị thế và đặc
trưng riêng của từng đô thị trong quốc gia, trong khu vực, được phản ánh rõ nét
nhất qua các thiết chế và sinh hoạt văn hóa. Văn hóa TP. Hồ Chí Minh sau 1975 hòa
nhập với văn hóa cả nước, nhưng thành phố luôn là nơi tiếp nhận và lan tỏa nhiều
yếu tố văn hóa – kỹ thuật hiện đại, những phương thức kinh tế mới. Đồng thời thành
phố vẫn lưu giữ được cốt cách, đặc trưng văn hóa Sài Gòn, Nam bộ: cởi mở, khoan
dung, nghĩa tình, luôn lấy thực tiễn làm thước đo và giá trị của sự phát triển
xã hội.
Chính quyền thành phố đang xây dựng, hoàn thiện các chủ
trương, chính sách về phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở khai thác có hiệu quả ba nguồn lực quan trọng: thứ
nhất là sự đầu tư của Nhà nước; thứ hai là nguồn lực của các tổ chức xã hội; thứ
ba là nguồn lực của nhân dân thành phố.
"TP. Hồ Chí
Minh vì cả nước, cả nước vì TP. Hồ Chí Minh" không chỉ trên lĩnh vực kinh
tế, mà còn có những đóng góp quan trọng từ lĩnh vực văn hóa. Xây dựng Tp. Hồ
Chí Minh văn minh, hiện đại bắt đầu từ những quyết sách và sự thực thi chính
sách của chính quyền trung ương và chính quyền thành phố trên quan điểm Phát
triển bền vững. Đó là sự hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường, di sản văn hóa. Bởi vậy, văn hóa chính là “tấm gương” phản ánh bản sắc và
trình độ phát triển của TP. Hồ Chí Minh một cách trung thực và rõ ràng nhất.
Ngày 5.11.2024
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét