https://nguoidothi.net.vn/160-nam-thao-cam-vien-sai-gon-42825.html
Nguyễn Thị Hậu
Thảo cầm viên Sài Gòn là một không gian công cộng và cảnh
quan đô thị thân thiện với môi trường và con người. Thảo cầm viên để lại dấu ấn
đặc biệt đối với du khách và ký ức bền chặt của cư dân thành phố. Đây là một di
sản đô thị mang nhiều giá trị, thể hiện bản sắc văn hóa và văn minh của thành
phố.
1.
Theo một nghị định ký vào ngày 23.3.1864, một khu đất rộng
đến 12 ha nằm ở phía đông bắc rạch Thị Nghè được Đô đốc De La Grandiere giao
cho bác sĩ Louis Adolphe Germain tạm thiết kế và quy hoạch một khu vườn thực vật
và động vật. Lúc đầu được gọi là Vườn Bách thảo với quy mô và quy hoạch như một
công viên bảo tồn động, thực vật lớn nhất của thành phố.
Ngày 23.3.1865 ông Jean Baptiste Louis Pierre – người
đang phụ trách vườn Bách thảo Calcutta (Ấn Độ) được chính quyền Pháp ở Sài Gòn
mời về làm giám đốc khu vườn Bách thảo và Bách thú (Jardin botanique et
zoologique), ông đảm trách chức vụ này đến ngày 10.10.1877. Ông Jean Baptiste
Louis Pierre “đã tổ chức vườn ươm một cách rất đáng khâm phục và đã giao cho
thành phố hàng ngàn cây xanh để trồng trong các công viên và trên các đại lộ”. Khi
vườn Bách thảo mới được thành lập, trên báo Courrier de Saigon đã đăng lời kêu
gọi mọi người, kể cả người dân lẫn du khách và binh lính thuộc mọi miền trên xứ
Nam kỳ đóng góp các loại thực vật và động vật, nhờ đó đã tập hợp được nhiều giống
lạ. Đến năm 1878 nơi này đã tập hợp được hầu hết các loại động vật ở Nam kỳ.
Vườn Bách thảo Sài Gòn được quy định bằng Nghị định ngày
17/02/1869 của Thống đốc Nam kỳ. Một số điều khoản cơ bản là Vườn Bách thảo thuộc
sự quản lý của Nha Nội chính. Vườn Bách thảo mở cửa cho mọi người đến xem.
Từ năm 1956 vườn Bách thảo được tu sửa và đổi tên là Thảo
Cầm Viên cho đến nay. Đến năm 1990, nhiều chuồng thú được cải tạo và mở rộng
cho phù hợp. Chương trình trao đổi động vật với các vườn thú đã làm cho bộ sưu
tập động vật của Thảo Cầm Viên Sài Gòn càng thêm phong phú.
Thảo Cầm Viên Sài Gòn là vườn thú lâu đời đứng thứ 8 trên
thế giới, là nơi từng được xem là khu vườn có bộ sưu tập thảo mộc và muông thú
phong phú nhất ở vùng Viễn Đông. Năm 1990 Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức
của hiệp hội các vườn Đông Nam Á.
Trong khuôn viên Thảo cầm viên Sài Gòn còn có hai công
trình kiến trúc khá tiêu biểu của giai đoạn lịch sử nửa đầu thế kỷ 20. Đó là Bảo
tàng lịch sử TP. HCM và Đền thờ Hùng vương. Đây còn là hai công trình văn hóa
quen thuộc của cư dân thành phố và du khách.
Với không gian rộng lớn, mát mẻ, phong phú các loại động
thực vật, kết hợp các công trình văn hóa, Thảo Cầm Viên Sài Gòn luôn là một
trong những công viên vui chơi giải trí ưa thích nhất của người dân TP. Hồ Chí
Minh và du khách. Hiện nay Thảo Cầm Viên hàng ngày đón hàng nghìn lượt khách du
lịch trong và ngoài nước đến tham quan.
2.
Ở nước ta, trong các làng xã hay đô thị cổ xưa không gian
công cộng thường là sân đình hay khuôn viên chùa, nhà thờ, hoặc khu vực chợ
làng... Nơi đó cộng đồng có những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chung, có giao
tiếp – trao đổi hàng hóa. Đồng thời với những sinh hoạt đó là giao lưu văn hóa,
tình cảm của cộng đồng. Những khoảng thời gian cộng đồng có sinh hoạt chung như
vậy không nhiều, năm đôi ba lần lễ hội vào dịp nông nhàn hay tết nguyên đán...
Tuy nhiên, nhu cầu “không gian công cộng” luôn tồn tại trong mọi cộng đồng, mọi
thời đại vì đó chính là nhu cầu thể hiện bản sắc, đặc trưng văn hóa của cộng đồng,
của địa phương.
Sang thời kỳ đô thị được xây dựng theo kiểu phương tây,
không gian công cộng nhiều hơn và đa dạng hơn. “Nguồn gốc của không gian công cộng, theo cách nhìn của phương Tây,
liên quan đến khái niệm ‘quyền’ tiếp cận và loại trừ tới các không gian đó.
Trong các mô hình xã hội dân chủ, nhà nước cần thiết lập những không gian mà ở
đó tất cả mọi người đều có quyền tiếp cận bất luận địa vị xã hội hay điều kiện
kinh tế, và quyền này được bảo vệ bởi hiến pháp và pháp luật. Đó là những không
gian thực sự là của chung, của tất cả mọi người... Công viên cũng được xem là một
không gian công cộng chính thống để đảm bảo quyền lợi được nghĩ ngơi thư giãn,
tiếp cận thiên nhiên các các đối tượng xã hội”. [1]
Không gian công cộng
ở đô thị có nhiều giá trị cơ bản, đó là: Tác động tích cực đến sức khoẻ và tinh
thần dân cư; Gắn kết cộng đồng, góp phần định hình nên bản sắc của một khu vực,
một cộng đồng; Giá trị phát triển kinh tế từ không gian công cộng còn là một
nguồn vốn xã hội gần như vô tận, lợi nhuận được thu về từ các hoạt động kinh tế,
giá trị văn hóa được tích lũy ngày càng cao; Lợi ích từ bảo tồn và đa dạng tự
nhiên, Thảo cầm viên và hệ thống công viên, cây xanh đô thị giúp tăng cường đa
dạng sinh học, tạo ra những hệ sinh thái tự nhiên trong lòng đô thị.
Từ nửa sau thế kỷ 19 tại đô thị Sài Gòn chỉ có một vài
công viên như Vườn Ông Thượng (Jardin de la Ville, nay là công viên Tao Đàn)
bao quanh Dinh Toàn quyền (nay là Dinh Độc lập). Một công viên khác là Vườn cây sao – chính là
công viên hai bên đường Lê Duẩn ở phía trước dinh Độc Lập. Từ lâu đây là nơi giới
trẻ thường xuyên lui tới, làm nên địa danh “cà phê bệt” nổi tiếng và độc đáo của
thành phố. Cảnh quan khu vực này còn có Nhà thờ Đức bà và quảng trường Công xã
Paris, Bưu điện thành phố... nối liền với đường Đồng Khởi đi xuống bến Bạch Đằng,
đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hàm Nghi, chợ Bến Thành. Tuy nhiên công viên lớn nhất
vẫn là Thảo cầm viên nằm đối diện Dinh Độc Lập, với trục đường Lê Duẩn nối liền
một thiết chế chính trị quan trọng nhất với một thiết chế văn hóa mang tính
công cộng cao nhất, tạo nên sự kết nối gần gũi mà vẫn phân định được chức năng chính
của hai công trình. Đây là một điểm nổi bật trong quy hoạch đô thị Sài Gòn. Toàn
bộ khu vực trung tâm được coi là “vùng di sản” của đô thị Sài Gòn.
Hồi ký của Paul
Doumer (Toàn quyền Đông dương giai đoạn 1897 – 1902) miêu tả khu vực này như
sau: “Sài Gòn là một thành phố nhiệt đới xinh đẹp, thành phố duyên dáng nhất
vùng Viễn Đông. Một số công trình nghệ thuật ở Sài Gòn rất đẹp; tất cả đều có
kích thước lớn; nhà cửa nói chung khá xinh xắn, đường phố rợp bóng cây, tất cả
như chìm ngập trong một đại dương xanh. Nhìn từ trên cao xuống, từ chòi quan
sát trên nóc một con tàu hoặc từ các tháp của nhà thờ, Sài Gòn hiện ra như một
công viên rộng lớn, trong đó một vài tòa nhà quá đồ sộ hoặc quá cao vượt lên khỏi những tán cây. Này
là Dinh Toàn quyền, các tại lính, bệnh viện, Sở bưu điện, Dinh Thống đốc, Nhà
Đoan (Sở Thuế quan)... các công thự đó không chịu thua những tán cây muốn chiếm
lĩnh trời xanh, luôn luôn vươn lên và trải rộng nhớ nhờ nhựa sống của thiên
nhiên hào phóng”.
Cho đến cuối thế kỷ 20 có thể nhận thấy vai trò của Thảo
cầm viên so với các “không gian công cộng” khác là mang tính cộng đồng cao hơn.
Thảo cầm viên là nơi mà mọi tầng lớp xã hội đều có thể tham gia để đáp ứng nhu
cầu giải trí (tò mò, hiếu kỳ, nghỉ ngơi, vui chơi...). Không chỉ vậy, với hai
công trình văn hóa là Viện Bảo tàng và Đền thờ Hùng Vương, Thảo cầm viên còn là
nơi người dân được tiếp nhận nhiều tri thức lịch sử - văn hóa, được “về nguồn”
bằng các sinh hoạt tâm linh ngày thường cũng như vào dịp Lễ, Tết...
Từ sau 1954, nhất là từ sau 1975, chức năng của các không
gian công cộng ở khu vực trung tâm thành phố được chia sẻ cho nhau: “phố đi bộ”
từ đường Đồng Khởi nay có thêm đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi; các cơ sở dịch vụ (nhà
hàng, khách sạn, nhà sách, rạp phim...) không chỉ dành cho tầng lớp thượng lưu
mà trở nên quen thuộc với các tầng lớp khác. Tuy có thêm nhiều công viên lớn nhỏ
khắp thành phố và vùng ngoại ô nhưng Thảo cầm viên vẫn giữ vị thế “đặc biệt” do
có tính chất và chức năng quan trọng trong nhiều lĩnh vực.
3.
Là một công viên với hàng ngàn cây xanh nhiều chủng loại,
được trồng và chăm sóc khoa học, tạo cảnh quan đẹp, không gian Thảo cầm viên
mang lại tác dụng tốt cho sức khỏe cư dân đô thị. Số lượng mảng xanh và không
gian chung ở Việt Nam đang dần bị thu hẹp lại nhường chỗ cho các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng và đô thị mới. Chính vì vậy, mảng xanh của Thảo cầm viên ngày càng
trở nên quan trọng đối với TP. Hồ Chí Minh đang trong quá trình đô thị hóa – hiện
đại hóa ngày càng mạnh mẽ.
Thảo cầm viên nằm ở vị trí trung tâm thành phố, rất thuận
tiện cho người dân và du khách tới tham quan, nghỉ ngơi giải trí. Bên cạnh đó
có sự kết nối với các khu vực dịch vụ, văn hóa khác nên đây là điểm đến không
thể thiếu được của cộng đồng trong cuộc sống hàng ngày cũng như dịp lễ hội. Bất
cứ ai đến Thảo cầm viên cũng được hòa mình vào thế giới tự nhiên trong lành, hấp
dẫn, được trở về ký ức tuổi thơ vui tươi, hồn nhiên... Cảm thức này tạo nên sự
gắn kết giữa những con người xa lạ, tạo nên sự gần gũi trong một thành phố rộng
lớn, đông đúc và luôn có số lượng lớn người nhập cư. Giá trị tinh thần này vô
cùng quý giá đối với cộng đồng, là một lợi thế của chính quyền trong việc đề ra
chính sách và thực hiện quan tâm về an sinh xã hội.
Giá trị khoa học và cung cấp tri thức cho cộng đồng của
Thảo cầm viên là không thể phủ nhận và ngày càng trở nên quan trọng trong thời
kỳ biến đổi khí hậu toàn cầu. Công cuộc bảo tồn các giống loài động vật và thực
vật không chỉ nhằm lưu giữ một phần của lịch sử tự nhiên, mà còn cho biết thái
độ, ứng xử của con người đối với thiên nhiên và môi trường sống. Cùng với đó Thảo
cầm viên còn là nơi các nhà khoa học tiến hành công việc trồng thí nghiệm các
giống loài thực vật phục vụ nhu cầu của đô thị. Không biết chức năng này đến
nay còn hữu dụng hay không, khi mà việc trồng cây xanh ở thành phố không có sự
nhất quán và lâu dài, trong khi nhiều cây cổ thụ, nhiều mảng xanh bị chặt hạ để
xây dựng hạ tầng giao thông?
Không gian công cộng như Thảo cầm viên không chỉ có giá
trị “phi vật thể” như trên mà lợi ích kinh tế cũng rất cụ thể. Ngoài những dịch
vụ ăn uống, vui chơi giải trí trong Thảo cầm viên, ở nhiều quốc gia những
“không gian xanh” của rừng, công viên... đều được coi là “vốn xã hội”. TP. Hồ
Chí Minh đang hướng tới xây dựng “Thành phố Xanh”. Cho dù “mảng xanh” chỉ là một
trong nhiều yếu tố của “thành phố xanh” nhưng đây là yếu tố tự nhiên, bền vững,
thân thiện và dễ thực hiện việc tăng cường và bảo vệ.
Với chức năng “không gian công cộng đặc biệt” và nhiều lợi
ích quan trọng đối với xã hội hiện đại, Thảo cầm viên Sài Gòn cần được bảo tồn
và phát triển như một di sản đô thị đồng thời là một “chỉ số xanh” của thành phố
Hồ Chí Minh.
[1] Theo Phạm Thúy Loan. Nguồn http://kientrucvietnam.org.vn/khong-gian-cong-cong-trong-do-thi-tu-ly-luan-den-thiet-ke/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét