Nguyễn Thị Hậu
Hiện
nay ở đồng bằng sông Cửu Long, hay miền Tây Nam
bộ như cách gọi thông thường, đã xuất hiện xu hướng tìm về
nguồn tài nguyên bản địa để phát triển kinh
tế, công nghệ, văn hóa, du lịch… hướng
đến “phát triển bền vững” toàn vùng.
Một
trong những loại hình kinh tế - văn hóa độc đáo, hấp dẫn mang giá trị cao của “tài nguyên bản địa” vùng
sông nước Nam bộ là chợ nổi. Xuất hiện tại những tuyến giao thông đường thủy chính, một số chợ nổi được nhiều
người biết đến là chợ Cái Bè (Tiền Giang), Cái Răng, Phong Điền (Cần Thơ), Ngã
Bảy Phụng Hiệp (Hậu Giang), Trà Ôn (Vĩnh Long), Ngã Năm (Sóc Trăng), Long
Xuyên, Châu Đốc (An Giang), Cà Mau, Năm Căn (Cà Mau), Vĩnh Thuận (Kiên Giang)… Tuy
nhiên, nhiều chợ nổi đang có nguy cơ “chìm” mặc dù kết hợp chức năng kinh tế với
du lịch, nhưng cả hai chức năng
này ngày càng không đáp ứng được yêu cầu.
Để
chợ nổi có thể duy trì được sức hấp dẫn về văn hóa và giữ được vai trò kinh tế,
cần thiết nhìn nhận được những đặc điểm – tức
là các giá trị “bản địa” của nó.
Chợ nổi hình thành và phát
triển ở vùng sông nước miền Tây Nam bộ. Đây là đồng bằng thấp trũng
sông rạch dày đặc đan xen chằng chịt. Cùng với đó là một mạng lưới kênh đào phát triển mạnh từ
thời Nguyễn. Sông rạch hay kênh đào có chức
năng đưa nước ngọt, phù sa về đồng bằng, thoát nước vào mùa nước nổi, là đường
giao thông thuận tiện và rộng khắp, nguồn thức ăn tôm cá cua ốc… quanh năm. Chợ nổi gắn liền sự phát
triển giao thông đường thủy ở Nam Bộ, nhất là ghe thương hồ buôn bán với phương
thức “mua tận gốc bán tận ngọn”, có khi trao đổi hai chiều mang hàng tiêu dùng
đổi/bán rồi mua nông sản. Tính
“chuyên nghiệp” của chợ nổi thông qua “sự phân công lao động hợp lý”, nhằm chia sẻ lợi nhuận
trên nguồn vốn bỏ ra nhưng vẫn có sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau khi rủi ro, giữa người sản xuất và người lưu thông hàng hóa.
Do
ảnh hưởng chế độ “bán nhật triều không đều” (cả về thời gian và lưu lượng) của vùng
biển Tây Nam bộ nên hệ thống sông sông kênh rạch ở đây ngày hai
lần nước lớn nước ròng. Tùy từng nơi mà
chợ nổi hình thành ở vị trí khác nhau nhưng phần lớn tại các vàm sông (nơi có các dòng
chảy gặp nhau tạo ra ngã ba, ngã tư… ngã bảy). Vàm sông có địa hình rộng rãi và tỏa đi nhiều hướng, là nơi “giáp nước,
nước đứng” khi nước ròng nước lớn ngược chiều gặp nhau, tùy theo ngày âm lịch
mà giờ giấc khác nhau chút ít. Do phương tiện xuồng bơi ghe chèo nên đi thuận con
nước để ít tốn công sức mà lại nhanh. Trong khoảng thời gian “nước đứng” ngắn
ngủi ấy ghe xuồng neo đậu nghỉ ngơi nấu ăn, sửa chữa ghe xuồng, lên xuống hàng
hóa, giao tiếp với bạn hàng, chờ con nước thuận mà tiếp tục ngược xuôi. Từ đó
hình thành các chợ nổi xưa. Tại đây, trên bờ
cũng hình thành các bến chợ, điểm tụ cư làm “dịch vụ” như bán thức ăn, đồ dùng
thiết yếu, cơ sở sửa chữa ghe tàu, các dịch vụ khác… dần dần trở thành các thị
tứ. Nhà lồng chợ được xây dựng và trở thành trung tâm thị tứ.
2.
Một điều bất ngờ và thú vị là trong cuốn hồi ký Xứ
Đông Dương thuộc Pháp của Paul Doumer, toàn quyền Đông dương (1897 – 1902)
đã nói đến vai trò của chợ nhà lồng trong các làng ở Nam kỳ vào cuối thế kỷ
XIX. Trong đó Paul Doumer xác nhận rằng ở Nam kỳ chưa có khu chợ nào có mái che
trước khi người Pháp đến, ngày xưa chợ họp ngay trong làng hoặc trên mảnh đất
rìa làng; sau đó những người bán hàng ở chợ đã được ngồi bên dưới một công
trình có mái che như ở Pháp nhưng bốn phía thông thống để gió vào, rất thích hợp
với khí hậu ở Nam kỳ. Theo Paul Doumer, một trong những cơ sở quan trọng nhất của
một làng ở Nam kỳ hiện đại là cái chợ, và làng nào cũng tự hào về chợ làng mình
chẳng khác gì tự hào về đình làng vậy. Tuy nhiên lợi ích quan trọng nhất của chợ
là làng thu được từ chợ một khoản thuế lớn để làm công quỹ.
Như vậy, chợ nhà lồng ra đời không chỉ là sự thay đổi về
hình thức của “chợ quê” mà còn là sự thay đổi một cách thức buôn bán: trong số
những người đến chợ mua bán theo kiểu tự cung tự cấp có những người trở thành
“chuyên nghiệp” vì buôn bán thường xuyên và cố định trong nhà lồng, họ có nghĩa
vụ đóng thuế - chính thức hóa nghề nghiệp. Và nguồn thu từ thuế chợ trở thành một
nguồn kinh phí cho hoạt động công ích của làng xã.
Hiện nay rất đáng tiếc là nhiều nơi ở Nam bộ đã phá chợ
nhà lồng mà xây nên những “trung tâm thương mại” hoành tráng mà vô hồn, chỉ còn
lại một số ít ngôi chợ nhà lồng cổ xưa.
Bên cạnh việc bảo tồn “chợ nổi” trên sông nước như một nét độc đáo của văn hóa
và du lịch miền Tây, chợ nhà lồng cũng cần được bảo tồn và duy trì hoạt động vì
đã lưu giữ nét “văn hóa thương nghiệp” độc đáo của các thị tứ Nam bộ. Với giá
trị lịch sử như vậy chợ nhà lồng hoàn toàn xứng đáng được coi là di sản văn hóa
của Nam bộ, cả ngôi nhà lồng và những sinh hoạt chợ truyền thống ở đó.
Những lần có dịp đi Pháp làm việc hay du lịch, tôi thường
bắt gặp trong nhiều làng cổ ở Pháp ngôi chợ “nhà lồng” cũng ở trung tâm của
làng hay khu vực dân cư tập trung đông. Làng nào cũng có hai công trình công cộng
là nhà thờ và chợ, nhưng chợ thì không xây dựng trước nhà thờ hoặc gần các công
trình tôn giáo. Tại Pháp công tác bảo tồn những công trình cổ rất tốt, không chỉ
gìn giữ lại phần vật chất, thực thể của công trình mà còn duy trì, nuôi sống được
cái hồn của mỗi công trình cổ. Những ngôi chợ cổ ở Pháp hiện nay chủ yếu hoạt động
trong các ngày lễ hội, cuối tuần và phục vụ trong những thời gian đông du khách
như mùa hè. Xưa đây là nơi nhộn nhịp và sinh động nhất trong cuộc sống của người
dân tại làng quê Pháp thì nay là nơi họ có thể trưng bày, giới thiệu và bán những
sản phẩm thủ công mỹ nghệ hay ẩm thực độc đáo – niềm tự hào của làng quê. Chợ
hoạt động phục vụ nhu cầu của dân bản địa và khách du lịch. Loại hình chợ này rất
thuận tiện cho mọi người có nhu cầu tham quan, mua sắm thoải mái.
3.
Chợ nổi hay chợ truyền thống ra đời “tự phát” nhưng để
hình thành một hiện tượng kinh tế - văn hóa đặc trưng của miền Tây Nam bộ thì đã
có sự kết hợp địa lý tự nhiên và tính thích nghi của cộng đồng bản địa. Đó là
những yếu tố làm cho chợ nổi và chợ truyền thống ở nơi thị tứ hay ở làng quê đã
tồn tại lâu dài.
Hiện nay những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội đã
khác xưa, văn hóa, lối sống của cộng đồng dân cư có nhiều biến động. Vì vậy, duy
trì hoạt động của chợ nổi nói riêng và chợ truyền thống nói chung khó khăn, nếu
thêm chức năng “du lịch” càng khó hơn nếu không tạo ra những yếu tố mới, hoạt động
mới. Chợ truyền thống muốn trở thành một sản phẩm độc đáo trong chuỗi sản phẩm
của “du lịch văn hóa sông nước” không thể chỉ dựa vào, ăn theo “vốn xã hội cũ”
mà cần tạo ra “vốn xã hội mới” để hình thành những giá trị mới.
Một đúc kết từ thực tiễn mà
hiện nay đã trở thành phương châm của các nhà sản xuất: khách hàng tiếp nhận sản
phẩm là tiếp nhận các yếu tố: sự trải nghiệm về tính độc đáo của sản phẩm, giải
pháp sử dụng sản phẩm và hành vi tiêu dùng sản phẩm. Theo đó, sản
phẩm du lịch chợ nổi/chợ truyền thống cần đáp ứng nhu cầu mua bán sản phẩm đặc
trưng của địa phương là nông sản, ẩm thực với cách thức phù hợp; tạo ra và đáp ứng
nhu cầu trải nghiệm được “mua bán” ở chợ truyền thống dù chỉ trong một khoảng
thời gian không dài.
Giống như trong bảo tàng có không gian “khám
phá” dành cho du khách tự mình tham gia vào một sự kiện lịch sử giả định, chợ truyền
thống cũng cần tổ chức cho du khách được một lần trải nghiệm với vai trò người
bán người mua trong không gian văn hóa địa phương, giữa một cộng đồng có lối ứng
xử giản dị, chân thành, niềm nở với du khách sẽ tạo ra ấn tượng tốt đẹp. Tất cả
hoạt động trên đều cần sự hợp tác và tham gia của cư dân địa phương, tức là tạo
cho cộng đồng một sinh kế mới từ “nguồn vốn văn hóa bản địa”.
Khi hoạt động du lịch coi trọng giá trị tài nguyên bản địa
của văn hóa truyền thống, coi trọng vai trò của cộng đồng chủ thể văn hóa ấy, thì
du lịch mới có thể góp phần tích cực bảo tồn di sản văn hóa, để từ đó có thể khai
thác và phát triển văn hóa truyền thống bằng những sản phẩm mới, với một sức sống
mới.
TC Du li5ch TPHCM 12.2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét