Nguyễn Thị Hậu
Mùa lễ hội
Không biết từ bao giờ khoảng thời gian sau Tết âm lịch –
tháng giêng kéo dài qua hết tháng hai, tháng ba thậm chí qua tới tháng tư – được
gọi là ‘mùa lễ hội”?
“Mùa lễ hội” tương đương thời gian của một vụ mùa nên cũng có
sự co giãn về thời gian theo cơ cấu thời gian nông nghiệp, nông thôn. Lễ hội diễn
ra liên tục về thời gian từ lúc nông
nhàn sau Tết âm lịch đến đầu mùa mưa bước vào thời vụ mới. Lễ hội diễn ra liên
tục trong không gian: từ làng này qua làng khác, lễ hội liên làng, lễ hội của một
vùng… chủ thể của lễ hội là cộng đồng của một làng, của một vùng. Nhiều lễ hội
nổi tiếng không phải vì có đông người từ xa về tham dự hay vì có các quan về chủ
trì, mà vì sự độc đáo của phần Hội, ở ý nghĩa nhân văn của phần Lễ. Chính vì vậy
được cộng đồng chủ thể của lễ hội gìn giữ, không làm biến chất, biến dạng vì hiểu
giá trị của lễ hội làng, vùng mình chính là sự khác biệt, độc đáo.
Từ khoảng mươi năm nay lễ hội bỗng dưng nở rộ dồn dập vào sau
Tết, khi mà cơ cấu thời gian hiện nay của xã hội đã là thời gian công nghiệp và
đô thị - giờ hành chính. Hơn 800 lễ hội cấp quốc gia và cấp tỉnh (chưa tính những
lễ hội chưa được thống kê) diễn ra trong khoảng
ba tháng, tức là một phần tư của một năm, lại là quý đầu năm, thời điểm
cần phải bắt đầu, khởi động kế hoạch của một năm mới. Thử thống kê số lượng người
đến các lễ hội này bao nhiêu phần trăm là công chức, viên chức nhà nước? Chắc
chắn tỷ lệ không nhỏ, bởi vì, ngoài việc đi lễ hội để thỏa mãn tâm lý “cầu cạnh”
các vị thánh thần ban cho tài lộc chức tước thì việc công chức viên chức nghỉ
việc đi lễ hội có bị trừ mất đồng lương nào đâu (và thu nhập thêm, nếu có), thậm
chí còn “trốn” được nhiều việc mà… không làm cũng chẳng ai chết (“dân có cần
nhưng quan chưa vội” – ca dao mới).
Chưa nói đến những giá trị đích thực của lễ hội còn hay mất,
chưa nói đến hình thức lễ hội còn là truyền thống hay không… chỉ cần nhìn hiện
tượng các địa phương đua nhau “nâng cấp” lễ hội cả về quy mô và hình thức, có
thể nhận biết mục đích chính của hiện tượng lễ hội tổ chức tràn lan đến mức
không kiểm soát được, như thừa nhận của ngành Văn hóa: Thực chất ở rất nhiều lễ hội đó là sự
thương mại hóa. Không thể phủ nhận, khi Lễ hội trở thành một sản phẩm văn hóa
thì mục đích thương mại không thể không đặt ra, nhưng mục đích thương mại phải
đặt sau, đặt dưới mục đích bảo tồn giá trị văn hóa của lễ hội, tức là bảo tồn
di sản văn hóa cho đời sau, bên cạnh việc quảng bá, giới thiệu văn hóa Việt Nam
đến thế giới.
Việc các phương tiện thông tin và ngành du lịch đua nhau quảng
bá rầm rộ về “mùa lễ hội” cũng góp phần kích thích tâm lý “lễ hội” của người
dân và xu hướng thương mại hóa các lễ hội.
Quá khứ nào đang
trở lại?
Từ năm 2010 nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa đã chỉ ra,
Lễ khai ấn đền Trần và nhiều lễ hội khác hiện nay phục hồi lại không còn giữ
đúng về hình thức và nội dung đã được lưu truyền hay ghi chép trong sử sách.Thế
nhưng vì sao mỗi năm lại mỗi phát triển hòanh tráng, lãng phí thời giờ tiền bạc
công sức của xã hội, biến chất về ý nghĩa mang nặng yếu tố tiêu cực hơn?
Hiện nay tâm lý truyền thống "tháng Giêng là tháng ăn
chơi" sống lại và phát triển nhờ hàng lọat lễ hội mở ra với mật độ dày đặc
trong một thời gian không dài, quy mô tổ chức ngày càng lớn ngòai phạm vi làng
xã. Hầu hết lễ hội đều do các cấp chính quyền nhà nước tổ chức và cử hành nên
phần Nghi lễ (trước đây trang nghiêm, giản dị, vừa phải) thì nay trở thành phần
chính được cử hành hoành tráng, biến ý nghĩa của Nghi lễ dân gian truyền thống
thành sự thể hiện và đáp ứng những nhu cầu “chính thống” của xã hội hiện đại.
Do đó không lạ khi Lễ Khai Ấn đền Trần được nhiều người coi là lễ cầu xin thăng
quan tiến chức! Đây là tâm lý của một bộ phận không nhỏ của công chức nhà nước
nên có ảnh hưởng lớn đến tâm lý xã hội nói chung.
Người xưa nói “ấn tín” là để chỉ đạo đức, trách nhiệm của người
giữ ấn. Nhưng nay những “công bộc của dân” mấy ai quan tâm đến việc tạo dựng và
gìn giữ uy tín đạo đức? Mặt khác, việc các công chức nhà nước bỏ nhiệm sở đổ xô
đi lễ Khai Ấn và nhiều lễ hội khác, cho thấy mặc dù chúng ta luôn nói đến Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa nhưng không biết đến bao giờ tác phong văn minh công
nghiệp mới trở thành nếp sống của toàn xã hội?
Cũng vậy, những lễ hội có những hành vi chém giết động vật,
tranh cướp “lộc thánh”… nếu trước đây là biểu trưng văn hóa của một làng xã nhỏ
hẹp thì nay lại mang tính thực dụng của cả xã hội. Không thể không nhận thấy sự
phổ biến của việc nhúng tiền vào máu động vật bị giết hay rải tiền lẻ ở đền,
chùa để cầu may, việc để cho con trẻ chứng kiến, người lớn thì reo hò nhìn con
vật chết dần một cách bất nhẫn trong lễ hội và thực trạng xã hội: những hành vi
“buôn thần bán thánh” coi thường đạo đức luật pháp, dửng dung, trơ lỳ cảm xúc
trước bất công, trước hành vi bạo lực của con người với con người, như những vụ
“mất chó giết người đền mạng”, cô bảo mẫu đáng trẻ nhỏ, thanh niên nam nữ đánh
người già cả… xảy ra ngày càng nhiều.
Việc tiếp tục tổ chức rầm rộ những lễ hội với hàng trăm ngàn
người dân ùn ùn kéo đến làm cho ý nghĩa của lễ hội ngày càng biến dạng, thực chất
nó chỉ phản ánh thực trạng xã hội hiện nay. Đó là:
1/ Các lễ hội
truyền thống không còn giá trị đích thực, chúng ta sẽ làm mất di sản văn hóa của
chính chúng ta.
2/ Các giá
trị tinh thần tốt đẹp của truyền thống mất đi, con người sẽ phải tìm đến và tin
vào những giá trị “ảo”, dần dần sẽ làm băng họai xã hội!
Và 3/ Nhà nước
không thể quản lý được các lễ hội nếu cứ tổ chức tràn lan và tùy tiện như vậy,
những tệ nạn đã xuất hiện trong các lễ hội sẽ rất khó bị dẹp bỏ, chưa kể nó sẽ
biến tướng và xuất hiện thêm những tệ nạn mới.
Mỗi thời đại có hệ giá trị của thời đại mình, nhất là những
giá trị văn hóa. Có nên làm “sống dậy” một vài giá trị văn hóa của quá khứ
nhưng không còn hợp thời, thậm chí “giá trị” ấy còn dung dưỡng khuyến khích những
hành vi tâm lý xấu trong xã hội hiện này?
Quá khứ phải là nguồn mạch trong lành để nuôi dưỡng tâm hồn
con người hiện tại và tương lai, chúng ta không thể biến quá khứ thành “ao tù
nước đọng” chứa đựng thêm những rác rưởi ngày nay, bởi vì chúng ta đang sống
trong thời đại toàn cầu chứ không phải sống trong một cái làng tù túng ngày
xưa.
Lên đường để đến
tâm an
Mùa xuân cũng là mùa lễ hội. Phong tục tổ chức lễ hội vào thời
gian “nông nhàn” khiến cho trong Nam ngoài Bắc khắp đình, chùa, đền, miếu... tấp
nập người đi lễ. Ngày xưa lễ hội những ngày này, dù vào “tháng Giêng ăn chơi”
nhưng không nặng tính thực dụng mà chủ yếu để giải trí, du xuân gặp gỡ mọi người
và thăm viếng nơi danh lam thắng cảnh. Những lời khấn cầu đầu năm ngoài sự mong
muốn những điều may mắn tốt lành còn nhằm bày tỏ lòng thành tâm thiện với Thần,
Phật.
Trải qua mấy chục năm chiến tranh, ở miền Bắc nhiều phong tục
tập quán liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo bị xóa bỏ vì coi là “mê tín dị
đoan”. Nhưng sau chiến tranh, nhất là từ khi “đổi mới” về kinh tế, trong xã hội
“làm giàu” trở thành mục tiêu của nhiều người thì nhiều tục lệ đã phục hồi và
ngày càng phát triển theo hướng thực dụng.
Điều đáng nói là việc cầu xin tài lộc chức tước lan tràn mọi
lúc mọi nơi, đến mức không thể kiểm soát! Bây giờ vào ngày lễ tết đền chùa nào
cũng mù mịt khói nhang tràn ngập đồ lễ vàng mã tiền lẻ rải như rác... Người ta
cho rằng lễ càng “hoành tráng” thì thần, phật càng chứng giám phù hộ, cơ may
như những hợp đồng làm ăn béo bở, chức tước danh vị sẽ vào tay mình, tránh được
những rủi ro thậm chí nếu vi phạm luật pháp sẽ không bị phát hiện và được bao
che khỏi sự trừng trị của cơ quan chức năng...
Từ đó đã nảy sinh hiện tượng “buôn thần bán thánh”, “mua chuộc
thần phật”, “kinh doanh tâm linh”... Phục vụ cho nhu cầu này nên chùa chiền được
trùng tu, xây mới tràn lan, ngày càng hoành tráng, truyền thông rầm rộ về những
ngôi chùa xác lập một “kỷ lục” nào đó về quy mô kiến trúc trang trí, sự có mặt
của các vị quan chức thăm viếng cúng dường, tổ chức lễ hội cấp quốc gia... Chùa
càng to càng “giàu có” thì càng đông “tín đồ”, tiếng đồn “linh nghiệm” càng nhiều.
Người ta ồ ạt theo những tour “du lịch tâm linh” vội vã chạy từ chùa này sang
chùa khác cho đủ mấy “kiểng chùa” mà không có nơi nào đủ thời gian mà lắng lòng
thanh tịnh.
Trong khi đó ở đâu cũng có chùa làng. Những ngôi chùa đơn sơ
giản dị, gần gũi với dân cư trong vùng, nhiều chùa nuôi trẻ mồ côi người già cơ
nhỡ... nhưng ít người thăm viếng, thỉnh thoảng có người “từ thiện” đến giúp đỡ
chút đỉnh. “Phật tại tâm” sao còn phân biệt chùa giàu chùa nghèo, phân biệt
chùa lớn chùa nhỏ? Sự phân hóa “đẳng cấp” một cách sâu sắc không chỉ có ngoài
xã hội mà đã hiện diện trong các ngôi chùa phản ánh nhu cầu tâm linh đã bị tâm
lý “thực dụng” lấn át. Xưa trong truyện cổ tích khi khó khăn người ta thường cầu
xin ông Bụt giúp đỡ, nay lại coi Phật như ông Bụt vạn năng có thể giúp cô Tấm
trở thành hoàng hậu hay giúp anh nông dân có cây tre trăm đốt để trả thù phú
ông nên người ta lên chùa cầu xin không thiếu thứ gì... Và phải chăng vì quan
niệm “Bụt chùa nhà không thiêng” nên hay phải đi cầu Phật chùa xa cho “linh”?
Nhiều
người đã biết rằng, đi lễ chùa đầu năm hay vào ngày rằm, mùng một hàng tháng là
để tỏ lòng thành kính với Đức Phật, con người đến với Phật không phải để cầu
xin ban phát lợi lộc vật chất cho mình mà tìm đến giáo lý Phật Giáo để giác ngộ,
xuất phát từ bản thân làm việc thiện “tu nhân tích đức”... Trong xã hội ai cũng
hướng thiện và làm việc đức thì ngày càng có nhiều điều tốt đẹp cho tất cả mọi
người, trong đó có mỗi người. Đó là tâm thức cần có khi đến với các tôn giáo
trong đó có Phật giáo.
Mùa lễ hội nào cũng kết thúc, mọi người lại trở về với công
việc và sinh hoạt thường ngày. Nhưng điều quan trọng là sau mỗi lần lên chùa
vào đền thành kính khấn vái, chúng ta có hành xử tử tế, làm ăn lương thiện và
chăm chỉ hơn không, bởi vì nói cho cùng, lười biếng thì không Thần nào cứu
giúp, ác tâm thì không Phật nào độ trì... Có tâm có đức thì mới có linh. Vô tâm
thất đức thì dù có cầu cúng đến đâu cũng không thể mang lại sự bình an trong
tâm hồn. Tâm bất an là nguyên nhân mọi sự bất ổn của cá nhân và xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét