Vì đặc thù nghề nghiệp tôi có dịp đi đến một số “thành phố
di sản” ở châu Âu. Tãi đây cảnh quan đô thị và những công trình kiến trúc thời
trung cổ còn được bảo tồn rất tốt, trở thành “sản phẩm văn hóa” chủ yếu, cùng với
dịch vụ du lịch tạo nên ngành kinh tế chính của những thành phố này. Đồng thời
hệ thống bảo tàng theo nhiều chủ đề cũng tạo nên sự khác biệt, trong đó Bảo
tàng lịch sử của các thành phố luôn giữ vai trò chính yếu.
Tại các bảo tàng này việc trưng bày cổ vật, bảo
vật quốc gia tại các bảo tàng trên thế giới là khá phổ biến. Ngoài di sản văn
hóa của mình, các bảo tàng nổi tiếng còn lưu giữ và trưng bày những di sản của
các nền văn hóa khác, do những hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã được nước khác
lưu giữ. Ví dụ bức tranh Mona Lisa của Leona Leonardo da Vinci vẽ trong thời kì
Phục Hưng ở nước Ý. Tác phẩm thuộc sở hữu của Chính phủ Pháp và hiện được trưng
bày tại bảo tàng Louvre ở Paris, Pháp. Mỗi ngày có hàng ngàn lượt du khách xếp hàng chiêm ngưỡng
bức tranh nổi tiếng này. Tại bảo tàng quốc gia Anh có nhiều cổ vật của nền văn
minh Ai Cập, Lưỡng Hà, và nhiều nền văn hóa của các thời kỳ lịch sử... Việc
trưng bày một cách trân trọng và khách quan, khoa học trong giới thiệu nguồn gốc,
ý nghĩa đã làm tăng thêm giá trị của các di sản, phần nào góp phần làm tăng cường
sự hiểu biết giữa các cộng đồng.
Nhiều
năm trước ở nhiều bảo tàng địa phương ở nước ta, hiện vật quý hiếm chưa được trưng bày vì
cơ sở vật chất của bảo tàng còn đơn sơ, điều kiện bảo vệ chưa an toàn, phương
tiện trưng bày không đáp ứng yêu cầu mỹ thuật và nội dung của hiện vật. Vì vậy,
hiện vật có giá trị cao thường đến với công chúng qua trưng bày bằng hình ảnh,
bản vẽ, nhất là những hiện vật bằng vàng và đá quý. Tuy nhiên, nhiều hiện vật
trong số đó đã được đưa đi nước ngoài triển lãm, trưng bày, với số tiền bảo hiểm
lớn và điều kiện đóng gói vận chuyển bảo quản rất tốt. Tại các bảo tàng nước
ngoài, hiện vật được trưng bày với điều kiện vật chất, kỹ thuật rất tốt, mang lại
cho công chúng một cảm nhận toàn diện về giá trị lịch sử văn hoá của hiện vật.
Những
người làm công tác bảo tàng như
chúng tôi đều thấy băn khoăn trước thực trạng này: Vì sao dân ta
chưa được chiêm ngưỡng những cổ vật quý giá của Việt Nam? Làm sao cho người dân
trong nước được thụ hưởng đầy đủ giá trị văn hoá là di sản cho ông để lại? Từ những trăn trở đó, dưới sự chỉ đạo của
ngành văn hoá và sự hỗ trợ tạo điều kiện của chính quyền địa phương, đến nay tại
nhiều bảo tàng trong nước các cổ vật, bảo vật quốc gia đã lần lượt được đưa ra
trưng bày giới thiệu trực tiếp cho công chúng trong nước và du khách.
Những
năm gần đây, việc khai thác và sử dụng di sản văn hoá cũng có tình trạng tương
tự. Trong các quy hoạch kinh tế - xã hội địa phương, quy hoạch ngành văn hoá,
ngành du lịch, di sản văn hoá (vật thể, phi vật thể) được quan tâm đầu tiên là
“tài nguyên du lịch”, định hướng bảo tồn và phát triển nhằm phục vụ du lịch… Điều
này không sai, tuy nhiên chưa đúng với bản chất của di sản và thực chất của bảo
tồn di sản.
Luật Di sản văn hoá Việt Nam ghi rõ: Di sản
văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một
bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của nhân dân ta. Chính vì vậy, di sản văn hoá cần phải và trước hết
là bản sắc của một cộng đồng, cần được bảo tồn và phát triển phục vụ đời sống,
nhu cầu nâng cao tri thức, thụ hưởng văn hoá, giáo dục… của cộng đồng đã sáng tạo,
bảo tồn và phát triển di sản văn hoá.
Hiện
nay, việc tích hợp kinh tế di sản và kinh tế du lịch vào kinh tế chung của địa
phương là tất yếu. Tuy nhiên đây là hai ngành kinh tế đặc thù, nếu nhấn mạnh yếu
tố “kinh tế” và mục tiêu là “lợi nhuận” là chính thì yếu tố văn hoá sẽ biến dạng,
lệnh lạc… Mà lẽ ra, yếu tố bảo tồn bản sắc văn hoá, bản sắc cộng đồng địa
phương cần phải là mục tiêu chính. Một trong những giải pháp để cân bằng “kinh
tế và văn hoá” trong phát triển du lịch chính là tăng cường vai trò của cộng đồng
chủ thể của di sản và cộng đồng du khách nội địa.
Di
sản phản ánh diện mạo văn hoá cộng đồng, lịch sử một vùng đất, vì vậy cộng đồng
địa phương là người thấu hiểu về di sản, họ bảo tồn di sản trước hết vì đó là lịch
sử gia đình, dòng họ, là lối sống nếp sống của chính họ. Họ - bằng nhiều cách
khác nhau - chuyển tải thông điệp về di sản đến cho du khách một cách chân thực,
sinh động và đầy cảm xúc. Và chắc chắn du khách trong nước cũng là đối tượng tiếp
nhận những thông điệp và cảm xúc ấy trọn vẹn, bởi sự đồng cảm của “người trong
một nước”.
Cần
nhìn nhận những hình thức du lịch mới như du lịch cộng đồng, du lịch văn hoá… đã
mang lại lợi ích nhiều mặt cho cộng đồng địa phương: có điều kiện giới thiệu di
sản văn hoá độc đáo, kinh tế phát triển, từ đó lại có điều kiện bảo tồn cả hai
loại hình vật thể và phi vật thể của di sản. “Sống cùng di sản, vì di sản, nhờ
di sản” nên lòng tự hào về di sản văn hoá sẽ được “di truyền” đến nhiều thế hệ
sau, đó cũng là cách thức bảo tồn di sản bền vững. Khu di tích Hoa Lư của tỉnh Ninh Bình có thể được coi là
một thành công của phương thức này. Sự phát triển các làng du lịch cộng đồng ở
Hòa Bình, Sapa ở phía Bắc hay Tiền Giang, Trà Vinh ở phía Nam cũng có những
thành công đáng kể ở góc độ cộng đồng là chủ thể khai thác và truyền bá về di sản
văn hóa, biến phương thức này thành sinh kế theo hướng bền vững.
Nhiều nước quanh ta đã có kinh nghiệm trong việc phát triển
du lịch hướng đến thị trường nội địa, như Trung quốc. Có thể nhận thấy các khu
du lịch và các bảo tàng, điểm di sản văn hóa ở Trung quốc rất đông khách nội địa.
Du khách được tổ chức và hướng dẫn trật tự, nội dung lịch sử - văn hóa được
truyền đạt đầy đủ. Đồng thời, nếu là điểm du lịch cộng đồng thì ưu tiên hướng dẫn
viên là người của cộng đồng, khuyến khích du khách trao đổi thông tin với người
địa phương...
Đối
với du khách trong nước, việc có thêm sự hiểu biết về văn hoá các cộng đồng
khác, các vùng miền trong nước… giúp nâng cao sự thông hiểu, tôn trọng đa dạng
văn hoá, tăng cường đoàn kết. Sự hiểu biết văn hoá Việt Nam sẽ tạo nên lòng tự
hào chính đáng, cũng như nhìn lại những hạn chế của chính mình để có thể hoàn
thiện hơn. Mặt khác, mỗi người dân sẽ là một “kênh thông tin” về văn hoá Việt
Nam khi có dịp ra nước ngoài, tránh sự mặc cảm hay tự tôn quá đáng khi tiếp cận
với các di sản thế giới và nền văn hoá khác.
Để
phát triển du lịch bền vững thì ngành du lịch cần chú ý đến chủ thể của văn hoá
Việt Nam là khách nội địa – khách hàng tiềm năng lâu dài. Sự đáp ứng nhu cầu hiện
tại đồng thời với việc nâng cao và tạo ra nhu cầu đa dạng của du khách hướng đến
các giá trị tri thức, tinh thần... Sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc về di sản
văn hoá của chính người Việt Nam là phương thức quan trọng nhất để giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc trong thế giới toàn cầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét